30.07.2006 18:58

Cơ cấu và sức mạnh kinh tế của hệ thống HTX Cộng hoà liên bang Đức

PHẦN 1 - GIỚI THIỆU CÁC HỢP TÁC XÃ ĐỨC

Cộng hoà liên bang Đức (CHLB Đức) có hệ thống HTX rất giàu truyền thống và phát triển ở mức độ cao. Các ngân hàng HTX đầu tiên của thế giới được thành lập ở Đức, các ngân hàng HTX phục vụ sản xuất nông nghiệp, các HTX thu mua-tiếp thị sản phẩm nông nghiệp đặc biệt và các HTX thu mua sản phẩm phi nông nghiệp đã được thành lập ở Đức sớm hơn ở các nước khác.Ngày nay, các Ngân hàng HTX địa phương và các HTX kinh doanh dịch vụ, hàng hoá nông nghiệp và phi nông nghiệp ở Đức vẫn là các tổ chức vừa và nhỏ, ngoài ra còn có nhiều hình thức HTX của người sản xuất ở các ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp. Tính đến 31/12/1993, có khoảng 11.000 doanh nghiệp HTX ở Đức, bao gồm các HTX nhà ở và các HTX của người tiêu dùng, tổng cộng có 20 triệu thành viên.Tỉ lệ thành viên HTX trong tổng dân số Đức là khoảng 27% - một con số rất cao so với các nước khác. Ước tính cứ năm người trưởng thành ở CHLB Đức thì có ít nhất một người là thành viên của một HTX. Sự phát triển thể hiện rõ ở những con số không ngừng tăng trưởng: tổng số thành viên HTX ở Đức tăng gấp đôi kể từ năm 1950.Các HTX đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Đức. Riêng cổ phần của các thành viên ở các NH HTX địa phương là 28 tỷ DM (đơn vị tiền tệ Đức), cổ phần trong các HTX là hơn 8 tỷ DM. Mặc dù số vốn này do hơn 12 triệu thành viên sở hữu, đây vẫn là một con số không nhỏ khi so sánh trên tổng số 74.2 tỷ DM vốn sản xuất do các hộ tư nhân sở hữu trên toàn nước Đức. (số liệu cuối năm 1992). Hệ thống NH HTX có 170,000 nhân viên.Tổ chức HTX của Đức có đặc trưng là sự cạnh tranh của các HTX cơ sở hoạt động mang tính địa phương được các doanh nghiệp trực thuộc trung ương và địa phương tăng cường. Cấu trúc hoạt động của HTX theo mô hình từ dưới lên trên, việc kiểm soát dân chủ được thực hiện một cách gián tiếp như trong hoạt động chính trị. Hệ thống HTX của CHLB Đức bao gồm các hiệp hội quốc gia và khu vực có trách nhiệm kiểm toán, tư vấn và hỗ trợ các dịch vụ đào tạo cho các HTX thành viên cũng như bảo đảm tiền gửi và đại diện cho những lợi ích của hệ thống HTX trong lĩnh vực chính sách kinh tế. Kể từ 1/1/1972, sau khi Deutscher Genossenschaftsverband và Deutscher Raiffeisenverband quyết định tổ chức lại cơ cấu của hệ thống HTX nông nghiệp và phi nông nghiệp, thì tổ chức đỡ đầu là Deutscher Genossenschafts-und Raiffeisenverband e.V.(DGRV). Tổ chức này bao gồm ba hiệp hội liên bang tên là Bundesverband der Deutschen Volkbanken und Raiffeisenbanken e.V. (BVR – Hiệp hội liên bang các NH HTX Đức), DeutscherRaiffeisenverband e. V. (DRV – Hiệp hội Raiffeisen) và Zentralverband Gewerblicher Verbundgruppen e.V.(ZGV –Hiệp hội trung ương của các nhóm “Verbund” thương mại).Cùng với DGRV, các hiệp hội liên bang của các HTX nhà ở và người tiêu dùng thành lập tổ chức “Freier Ausschub der deutschen Genossenschaftsverband” (Hội đồng tự do của các hiệp hội HTX Đức), như là một tổ chức đại diện chung phi thể chế hoá (xem bảng 3).DGRV và các hiệp hội liên bang dưới sự bảo trợ của DGRV có trụ sở chính ở Bonn. BVR bao gồm tất cả các NH HTX, trong khi DVR chịu trách nhiệm với các HTX nông nghiệp và ZFG thì chịu trách nhiệm với các HTX phi nông nghiệp. Cả BVR lẫn DVR và ZGV đều không có chức năng kiểm toán. Tổ chức kiểm toán riêng ở cấp liên đoàn là DGRV. Tổ chức đỡ đầu này cũng đại diện cho những lợi ích chung của tất cả các HTX trong các lĩnh vực về chính sách kinh tế, chính sách tài khoá và lập pháp, tư vấn và giúp đỡ họ giải đáp tất cả các vấn đề liên quan đến các tổ chức và cơ quan khác ở Đức và ở nước ngoài. Ba hiệp hội liên bang trên có trách nhiệm cung cấp các dịch vụ hỗ trợ và tư vấn đặc biệt cũng như là đại diện cho những quyền lợi đặc biệt của từng thành viên. Chức năng kiểm toán các HTX cơ sở trực thuộc thì do các hiệp hội kiểm toán khu vực đảm nhiệm. Trường hợp ngoại lệ, một số HTX có mục đích đặc biệt được tổ chức ở cấp liên bang, và chính vì vậy chúng được kiểm toán trực tiếp bởi từng hiệp hội trung ương hơn là bởi các hiệp hội khu vực. Do có sự tái thống nhất nước Đức năm 1990, các hiệp hội kiểm toán tiếp giáp với GDR (CHDC Đức) trước đây đã mở rộng phạm vi của mình đến tận các bang mới gần kề. Saxonny là bang đông Đức duy nhất có hiệp hội kiểm toán khu vực độc lập được thành lập cùng với các hiệp hội khu vực ở tây Đức.

PHẦN 2 .CÁC NGÂN HÀNG HỢP TÁC XÃ

Cơ cấu hệ thống NH HTX

Hệ thống NH HTX Đức được tổ chức một phần theo 2 cấp, một phần theo 3 cấp. Cấp cơ sở là các NH địa phương bao gồm không chỉ có Volksbanken và Raiffeisenbanken mà còn có các NH HTX phục vụ các nghiệp vụ đặc biệt.Cấp 2 của hệ thống NH HTX bao gồm các NH khu vực, được các NH địa phương thành lập với mục đích chủ yếu là quản lý khả năng thanh khoản thặng dư hoặc đóng vai trò như là nguồn thanh khoản bằng tiền mặt ; ngày nay, các NH khu vực này có mở rộng một loạt các hoạt động. Cấp thứ 3 và đồng thời là NHTW của toàn bộ hệ thống chính là DG BANK Deutsche Genossenschaftsbank mà trong đó các NH HTX khu vực và các công ty nắm giữ hợp tác xã khu vực của các Ngân hàng lớn là những cổ đông.Kể từ khi các NH khu vực chuyển giao hoạt động kinh doanh NH của họ sang DG BANK trong thời kỳ từ 1985 đến 1989, thì hệ thống NH HTX có cơ cấu 2 cấp ở các khu vực trước đây được các NH này phục vụ.ở từng khu vực, DG BANK thực hiện các chức năng của các NH khu vực trước đây cùng với các nhiệm vụ quốc tế và quốc gia. Điều này cũng đúng đối với các Bang ở Đông Đức mới. Các NH HTX địa phương ở “các khu vực 2 cấp” tham gia DG BANK qua các công ty nắm giữ (holding company) hoặc trực tiếp.Hệ thống này cũng bao gồm một số các tổ chức lớn cung cấp các dịch vụ tài chính đặc biệt. Phần lớn các doanh nghiệp trực thuộc được đồng sở hữu bởi các NH HTX khu vực, các công ty nắm giữ HTX khu vực và DG BANK.Tất cả các doanh nghiệp trong hệ thống NH HTX là một phần của cơ cấu hiệp hội HTX, cơ cấu này bao gồm các hiệp hội kiểm toán khu vực, các hiệp hội kiểm toán liên bang của các HTX có mục đích đặc biệt và Bundesverband der Deutscher Volksbaken und Raiffeisenban ken e.V.,Bonn, đóng vai trò như là một hiệp hội quốc gia. Hơn thế nữa, tổ chức NH HTX là một thành viên của Deutscher Genossenschaft-und Raiffeisenverband e. V.., mà tổ chức này lại là hiệp hội bảo trợ của các NH HTX cũng như là của các HTX nông nghiệp và phi nông nghiệp.

Các NH HTX địa phương

Nguồn gốc của các NH HTX có thể bắt nguồn từ hội vay nợ lẫn nhau được HERMAN SCHULZE-DELITZSCH thành lập vào năm 1850. Giống như tất cả các hội vay nợ lẫn nhau được thành lập sau đó, hiệp hội đầu tiên này đã thấy được mục đích trong việc cung cấp các yêu cầu đặc biệt của các doanh nghiệp có quy mô nhỏ ( như là thợ thủ công, và những người bán lẻ): hội này là tiền thân của NH Volks hiện đại ngày nay. Các HTX tín dụng đầu tiên dành cho dân nông thôn được Friedrich Wilhelm (1862) và Heddesdorf (1864) thành lập. Những HTX này là những tổ chức tiền thân của Raiffeisenbanken hiện đại ngày nay. Từ năm 1972 Vollksbanken và Raiffeisenbanken ngừng thiết lập các nhóm riêng rẽ: Đối lập với hoàn cảnh (lấy ví dụ chẳng hạn) Úc, Ý, và Pháp, họ xây dựng một hệ thống NH HTX đồng bộ.Từ khi nước Đức tái thống nhất vào năm 1990, hệ thống này cũng bao gồm Volksbanken và Raiffeisenbanken ở các bang mới của Đức – “Genossenchaftskassen fur Handwerk und Gewerbe” trước đây (các NH HTX cho ngành thủ công và thương mại) và “Baureche Handelsgenosenchaften” (các HTX kinh doanh của nông dân) của GDR, vốn là những NH HTX đã được sửa đổi sang kiểu chủ nghĩa xã hội từ những Volksbanken và Raiffeisenbanken nguyên gốc. ”Genosenchaftskassen fur Handwerk und Gewerbe) điều hành việc kinh doanh tiền gửi, quản lý các tài khoản kinh doanh và xử lý những giao dịch thanh toán cho các HTX sản xuất và các HTX mua và cung cấp ở các ngành thủ công và buôn bán cũng như là cho việc duy trì các nghề thủ công tư nhân và buôn bán. Việc quản lý các NH này bị ràng buộc bởi các chỉ dẫn của Bộ Tài chính và NH TW GDR. “Baurliche Handelsgénchaphen”nhận tiền gửi và có trách nhiệm cho viêc giao dịch thanh toán của dân nông thôn, và đặc biệt là những giao dịch thanh toán của các HTX hợp nhất của những người nông dân các nhà làm vườn, các nhà trồng nho. Các HTX buôn bán này chịu trách nhiệm với Ngân hàng lương thực và nông nghiệp Nhà nước GDR, tổ chức kế nhiệm của các NH HTX khu vực Đông Đức, những NH được hợp nhất và quốc hữu hoá theo sắc lệnh 1950.Các NH HTX địa phương là những NH được đạo luật NH Đức xác nhận và đảm nhận tất cả các loại giao dịch tài chính. Các HTX quản lý bằng luật pháp đòi hỏi các NH HTX hỗ trợ cho các thành viên của họ qua các hoạt động NH, và họ hoàn thành nhiệm vụ này như là một NH tổng hợp với sự hỗ trợ từ các cơ quan khu vực, từ DG BANK như là NH TW của họ, từ các công ty chuyên môn hoá trực thuộc. Khách hàng của họ gồm hơn 12 triệu người, những người là cũng là thành viên và đồng thời là các cổ đông của các NH HTX địa phương, thuộc các thành phần kinh tế vừa và nhỏ: các nhà thầu khoán, nông dân, những nhà chuyên môn độc lập, và các hộ tư nhân.Kinh doanh cho vay của Volk và Raiff bao gồm tất cả các dạng vay như ở các NH hiện đại. Về truyền thống, các NH HTX địa phương được giao việc cung cấp các khoản vay cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành công nghiệp và thương mại cũng như là nông nghiệp. Với chiều hướng phát triển của nền kinh tế Đức ở thị trường nước ngoài sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, dịch vụ tài chính nước ngoài đã trở nên quan trọng hơn.Nhưng ngược lại khi mà các khoản vay ngắn và trung hạn lúc đầu chiếm vị trí quan trọng trong ngành tài chính công ty, thì ngày nay các khoản vay dài hạn lại trở nên quan trọng hơn. Cùng với các khoản vay đang hoạt động, các trọng điểm khác của giao dịch tín dụng ở các NH HTX địa phương là tài trợ cho việc đầu tư các dự án xây dựng và vốn cố định. Volk và Raiff cũng sẵn sàng cung cấp các khoản vay với lãi suất thấp cho các thành viên của họ và hỗ trợ họ qua các trương trình tín dụng của mình, giúp họ ngay sau đó có thể tiến hành công việc kinh doanh mới.Khi mà việc kinh doanh tiền gửi càng được quan tâm, thì các NH HTX đảm nhiệm tất cả các loại tiền gửi trên tài khoản vãng lai, tài khoản tiền gửi và tài khoản tiết kiệm. Tài khoản tiền gửi vẫn chiếm phần lớn trong việc kinh doanh tiền gửi. Để thúc đẩy việc tiết kiệm, các NH HTX tạo ra nhiều loại kế hoạch tiết kiệm mới cùng với các loại tiền gửi tiết kiệm đáng chú ý với khoảng thời gian hợp lý hoặc hợp pháp. Chẳng hạn, vào năm 1950, các NH HTX lần đầu tiên giới thiệu kế hoạch tiền thưởng tiết kiệm, tiếp sau đó vào năm 1964, cho ra đời giấy chứng nhận tiết kiệm. Thêm vào đó các NH HTX cũng đưa ra một loạt các công cụ đầu tư như trái phiếu tiết kiệm. Cùng với việc kinh doanh tiền gửi và cho vay, việc cung cấp các dịch vụ ngày càng trở thành một phần quan trọng trong hoạt động của các NH HTX địa phương. Volk và Raiff thực hiện tất các dạng giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt bao gồm việc sử dụng séc và thẻ tín dụng ở cả Đức và nước ngoài. Năm 1968, Volk là NH Đức đầu tiên phát hành thẻ séc có giá trị quốc tế,- năm trước thì đã giới thiệu séc Châu Âu. Deuscher, hệ thống chuyển khoản của các NH HTX do DG BANK lãnh đạo, đã được nối với hệ thống giao dịch thanh toán quốc tế SWIFT (Tổ chức thông tin tài chính NH quốc tế trên toàn thế giới). Với hệ thông TIPANET được giới thiệu vào năm 1993,Volk và Raiff là hệ thống NH đầu tiên ở Đức cung cấp cho các khách hàng quá trình thanh toán tự động, nhanh, và giá cả hợp lý.Trong ngành chứng khoán. các NH HTX đã cung cấp các dịch vụ bao gồm phân phối các cổ phiếu nước ngoài và của Đức, các chứng khoán lãi suất cố định và cổ phiếu vốn chung, cũng như là việc giám hộ chứng khoán.Cùng với việc kinh doanh tín dụng và tiền gửi và quá trình giao dịch thanh toán và các giao dịch chứng khoán, các NH HTX địa phương còn cung cấp một loạt các dịch vụ khác như dàn xếp các khoản vay thế chấp, các hợp đồng cho vay nhà ở và bảo hiểm cũng như là các hình thức đặc biệt của đầu tư tài chính. Dịch vụ tư vấn khách hàng của NH trong tất cả các lĩnh vực kinh doanh được hệ thống vi tính kỹ sảo hỗ trợ. Hơn thế nữa vào năm 1994 có khoảng 7500 máy rút tiền nhận dạng tiếng nói tự động dành cho các khách hàng của Volk và Raiff, những người đã lựa chọn phương thức tự phục vụ.Ngoài việc kinh doanh tiền, chưa bao giờ số lượng các NH HTX địa phương duy trì hoạt động mua hàng cung cấp của các hộ gia đình và của các nông trang lại giảm đến như vậy. Ngày nay, các hoạt động như vậy, chủ yếu do các nông dân làm nửa ngày và phần lớn bao gồm việc mua phân bón, thức ăn gia súc, khí đốt, và các vật liệu xây dựng,và các vật phẩm về vườn tược và hộ gia đình. Tại các văn phòng trung tâm của các NH HTX địa phương bị loại hình hoạt động hỗn hợp lôi cuốn và ở các văn phòng chi nhánh lớn hơn, hoạt động giao dịch, tài chính thường được tiến hành ở các văn phòng riêng rẽ, nhưng ngược lại NH Raff nhỏ hơn lại kết hợp các phương tiện kho hàng và ngân hàng lại với nhau.Cùng với bổn phận luật pháp là phải hỗ trợ cho các thành viên, các HTX NH chủ yếu hoạt động theo chiều hướng phục vụ thành viên hơn là theo chiều hướng lợi nhuận. Tuy nhiên, họ cũng cần phải kiếm lợi nhuận để có thể trả cổ tức trên các cổ phần vốn do các thành viên nộp vào, và để ủng hộ các quỹ dự trữ.Trong các năm kể từ thế chiến thứ II trở đi, các quỹ dự trữ lấy từ lợi nhuận chưa chia đã trở nên ngày càng quan trọng hơn dối với Volk và Raiff : ngày nay, tổng các quỹ dự trữ này đã tăng gấp 2 lần vốn góp vào. Khi mà vốn góp vào phát triển nhanh hơn khối lượng kinh doanh, thì nền tảng của vốn tự có phải được các quỹ phân bổ mở rộng hơn, các quỹ phân bổ này lấy từ lợi nhuận ròng hàng năm dành cho các quỹ dự trữ. Mặt khác, Volk và Raiff chắc hẳn là cũng không thể đạt đến sự mở rộng cần thiết để hổ trợ cho các thành viên.Đối với các NH được tổ chức như là các HTX, thì luật NH Đức cũng công nhận quỹ cổ đông hợp pháp là một phần nợ các thành viên đóng góp thêm vào vốn khi được kêu gọi, khi mà gánh chịu như là một khoản nợ, thì là một phần của sự quyên góp các cổ phần trong các HTX. Lợi tức nợ vốn kêu gọi này chiếm 75 % tổng vốn kêu gọi của NH: tuy nhiên từ năm 1995, lợi tức nợ vốn kêu gọi chiếm 25% cổ phần của các cổ đông chưa tính vốn kêu gọi.Để bảo vệ các khoản tiền gửi, các NH HTX là những NH tổng hợp đầu tiên ở Đức thiết lập nên một hệ thống dự phòng. Các Quỹ bảo đảm của Volk và Raiff lúc bắt đầu thì được quản lý riêng rẽ, sau thì chuyển giao cho hệ thống dự phòng chung bao gồm một quỹ bảo đảm và một quỹ bảo đảm vốn chung những quỹ này không những bảo vệ tất cả các tiền gửi mà còn chủ yếu bảo vệ cả những cổ phần của các HTX. Hệ thống dự phòng này từ khi thành lập thì không thành công lắm.Kết quả của việc tăng số lượng các thành viên từ sau chiến tranh thế giới II, các NH HTX đã thành công trong việc củng cố vị trí của mình khi gắn kết mình với các tầng lớp trung lưu của xã hội Đức. Những cổ đông mới chủ yếu từ hàng ngũ những người có thu nhập từ lương và gia đình của họ, những người có công ăn việc làm, chiếm 86% tất cả các cổ đông. Tầng lớp xã hội này đã tạo nên tầng lớp thành viên riêng (những người tự doanh, giao dịch, thợ thủ công, và các dịch vụ khác, nông dân, và các thành viên của các ngành nghề vẫn chiếm 14% cổ đông của các NH HTX Đức). Nhìn chung, các NH này có hơn 12 triệu cổ đông vào cuối năm 1993.Mặc dù cơ cấu thành viên của NH HTX chủ yếu vẫn là tầng lớp trung lưu mới, nhưng việc kinh doanh cho vay của họ vẫn tập trung vào khu vực các doanh nghiệp vừa và nhỏ: 50% các khoản vay đã được cung cấp cho các công việc kinh doanh vừa và nhỏ trong nông nghiệp và trồng rừng, sản suất, xây dựng, thương mại, nghề thủ công, và các dịch vụ khác.Ban kiểm soát của các NH HTX địa phương do các đại diện từ các ngành kinh tế khác nhau thành lập lên, phản ánh thực tế rằng Volk và Raiff có nguồn gốc từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ và ngành nông nghiệp: Các nông dân, các nhà thầu khoán vừa và nhỏ và các thành viên tự kinh doanh trong các ngành nghề muốn có nhiều đại diện hơn trong ban kiểm soát.Ngoài Volk và Raiff, các NH của các nhân viên đường sắt và bưu điện cũng như là của ngành dân sự khác cũng hoạt động dựa trên nguyên tắc của các HTX. Chúng tôi muốn nhắc đến một vài đặc điểm riêng đề cập đến cơ cấu và sự phát triển của họ: Sparda – Banken (NH HTX của các nhân viên đường sắt) đã hợp pháp các HTX đăng ký: các NH đầu tiên như thế này được thành lập năm 1896 như là những tổ chức tự giúp đỡ cho các nhân viên đường sắt. Công việc kinh doanh tín dụng của họ chủ yếu bao gồm các khoản cho vay cá nhân tài trợ cho việc mua các hàng hoá lâu bền cũng như là các khoản vay để thu mua tài sản dân cư. Vào cuối năm 1993, có 17 các NH như vậy với 191 chi nhánh và hơn 1 triệu cổ đông, bao gồm NH Sparda Berlin, là NH đã gia nhập hệ thống này vào năm 1990 khi nước Đức tái thống nhất. Kể từ đầu những năm 1970, các khách hàng từ các thành phần khác nhau của ngành công cộng này đã được chấp nhận là thành viên. NH Sparda – Banken có hiệp hội kiểm toán riêng của mình – Verband der Sparda – Banken e.V., Frankurt am Main, thành lập năm 1906.NH Post-Spar-und Darlehnsvereine (NH HTX của các nhân viên bưu điện ) đã có các tổ chức thương mại hợp pháp và cũng được quản lý theo phương thức HTX. Các NH này được thành lập vào năm 1872 như là tổ chức để giúp đỡ lẫn nhau của các nhân viên bưu điện. Công việc kinh doanh của họ tập trung vào các khoản vay trả góp và vay xây dựng. Vào cuối năm 1993, có khoảng 21 các NH HTX của các nhân viên bưu điện (Mỗi một NH nằm ở một quận của CHLB Đức) với 686.000 cổ đông. Các NH HTX của các nhân viên bưu điện là thành viên của hiệp hội kiểm toán liên bang đặc biệt, hiệp hội Verband der Post Spar-und darleshnverein e. V.,Bonn, thành lập năm 1938.NH Beamtenbanken (NH của những người phục vụ công cộng) là các tổ chức tự giúp đỡ cho người phục vụ trong ngành công cộng và đã hợp pháp các HTX đăng ký. Mục đích của họ là cung cấp cho các cổ đông các lãi suất vay ưu đãi trên tiền gửi và tiền vay cũng như là các giao dịch thanh toán với các điều khoản ưu đãi. Ngày nay có khoảng 4 NH như vậy với 80 chi nhánh ở tất cả các vùng của CHLB Đức. Nhìn chung, họ có 264000 cổ đông, trong số đó có các nhân viên bưu điện và những người làm công cho khu vực tư nhân và công cộng ( ngược lại những người làm ăn độc lập thì lại không được coi là đủ tư cách thành viên). Công việc kinh doanh của họ chủ yếu bao gồm các khoản cho vay để thu mua tài sản dân cư, ô tô, và các hàng hoá lâu bền khác, cũng như là tài trợ cho các dịch vụ y tế và giáo dục.

Các NH HTX khu vực

Ngược lại, SCHULZE-DELITZSCH không bao giờ nghĩ đến việc thành lập các NH khu vực và chỉ thiết lập một tổ chức trung tâm trên toàn đất nước theo dạng NH Soergel Bank, Raiffeisen lại công nhận sự cần thiết của các NH khu vực ở giai đoạn sớm. Kết quả là, nó đã thành lập NH Genossenchaft ở Newied năm 1872, là NH khu vực đầu tiên, sau 2 năm thì thành lập Landwirtschftliche ở Worms (Darmstadt sau này), và NH Westfalische Landwirtschftliche ở Iserlonh: Tất cả những NH này đều có vị trí các hợp tác xã hợp pháp.Trong Tổ chức Haas, các NH khu vực đầu tiên được thành lập năm 1883 (Nh Landwirt genosen AG ở Darmstad) và 1884 (NH Landiche Centralkasse AG) ở Munster. NH khu vực đầu tiên của NH Volk là Hanover, thành lập năm 1893.Trong khi chỉ có 16 NH như vậy vào năm 1895, con số này đã tăng lên là 58 vào năm 1907. Việc tăng lên này bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi việc thành lập Preubische Central-Genosen Kasse vào năm 1895, là tổ chức có thể đưa các NH HTX địa phương đến với thị trường và các quỹ của NH Reichs cho các mục đích tái tài trợ với các điều khoản ưu đãi nhưng buộc phải dồn các quỹ này vào cấp địa phương qua các NH khu vực.Sau thế chiến II, sự chia cắt nước Đức đã đẩy đến sự phát triển khác nhau. Trong khi các NH khu vực thuộc địa phận CHDC Đức không hoà nhập được với cơ cấu nền kinh tế mang tính XHCN và vì thế đóng cửa hàng loạt, thì các NH khu vực ở Tây Đức đã trải qua những năm kinh tế kỳ diệu của một nền kinh tế thị trường mang tính xã hội. Vào cuối những năm 60, tình hình cạnh tranh trên thị trường NH đã đẩy các NH HTX khu vực phải hợp nhất lại thành chủ thể hợp tác lớn hơn. Hơn thế nữa, sau khi thiết lập các hiệp hội hợp nhất của 2 tổ chức HTX vào đầu những năm 70, các NH khu vực của hệ thống Volk và Raiff cũng bắt đầu hợp lại với nhau. Trong khi đó, số lượng các NH HTX khu vực giảm còn 3 NH : WGZ bank ở Dusseldortf, SGZbank ở Frankfut am Main/ Karlsruhe và GZB bank ở Stuttgat. Các Ngân Hàng này cung cấp sự hỗ trợ cho các Ngân Hàng HTX địa phương ở Tây và Tây nam Đức. Các Ngân Hàng HTX địa phương ở các khu vực còn lại của nước Đức được DG BANK hỗ trợ, Ngân Hàng TW của toàn bộ hệ thống. Các NH HTX khu vực trước đây hoạt động ở Nam, Bắc Đức, đã chuyển giao việc kinh doanh sang cho DG BANK vào năm 1985 và năm 1989. ở Đông Đức, DGB có trách nhiệm hỗ trợ các dịch vụ cho Volk và Raiff tái thiết vào giữa năm 1990, khi Cộng hoà dân chủ Đức cũ và CHLB Đức gia nhập quỹ tiền tệ, quỹ này có trước khi nước Đức tái thống nhất.Phụ thuộc vào phạm vi của vùng kinh doanh và cơ cấu của các NH HTX trực thuộc, các NH khu vực duy trì các văn phòng chi nhánh ở từng khu vực. Các NH khu vực được thành lập để phục vụ các NH HTX địa phương như là các nhà quản lý khả năng thanh khoản, nói cách khác cung cấp cho họ cơ hội gửi vốn dư thừa cũng như là lấy vốn khi cần thiết. Ngày nay, thanh toán thặng dư của các NH HTX địa phương diễn ra dưới dạng các loại tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi qua đêm, các loại tiền này sẽ được đầu tư một phần vào DG BANK và một phần trực tiếp vào thị trường tiền tệ. Ngược lại, các NH HTX địa phương có thể vay vốn từ các NH khu vực, những NH mà bản thân họ cũng phải lấy vốn từ DG BANK.Trong hệ thống chuyển khoản HTX Đức cho việc thanh toán giao dịch không bằng tiền mặt được thành lập vào năm 1927, các NH khu vực phục vụ như trạm chuyển đổi để bù đắp các giao dịch thanh toán từ các NH HTX địa phương; họ phối hợp chặt chẽ với các trung tâm máy tính HTX.Trong khi đó, về cơ bản, trong hệ thống NH HTX, các khoản cho vay các khách hàng địa phương là lĩnh vực của Volk và Raiff, những NH địa phương có thể kêu gọi các NH khu vực mở rộng một khoản vay trong các trường hợp nơi mà các khoản vay dành cho khách hàng trong đoàn thể vượt quá các giới hạn của NH HTX địa phương, giới hạn do luật NH và luật các HTX xác nhận. Điều này cho phép các NH HTX địa phương không chỉ mở rộng giới hạn của các danh mục đầu tư tín dụng mà còn có thể kiểm soát các danh mục đầu tư tín dụng theo cách bảo đảm được chênh lệch rủi ro được cân bằng.Nếu khách hàng của NH HTX địa phương xin vốn lãi suất thấp từ các chương trình công cộng, các NH khu vực phải chịu trách nhiệm tìm được và dẫn truyền những vốn như vậy.Trong ngành chứng khoán, Volk và Raiff cũng có thể dựa vào sự hỗ trợ của các NH khu vực, là những NH có đại diện ở tất cả các thị trường chứng khoán ở Đức. Các NH khu vực hỗ trợ cho các NH HTX địa phương trong việc thực hiện các yêu cầu và cung cấp của khách hàng, hợp tác cùng với DG BANK, quản lý đầu tư, các dịch vụ tư vấn, cả trong lĩnh vực kinh doanh khách hàng và các giao dịch trên tài khoản của Volk và Raiff. Các NH HTX địa phương không có các phương tiện bảo quản an toàn và quản lý các danh mục đầu tư của khách hàng cũng được cho phép thực hiện các dịch vụ giám hộ chứng khoán cho những NH khu vực có khả năng kỹ thuật lớn.Vì hoạt động ngày càng tăng của các doanh nghiệp Đức vừa và nhỏ trên các thị trường nước ngoài và du lịch quốc tế tăng lên, việc các NH khu vực thay mặt cho các NH HTX địa phương quản lý kinh doanh thương mại ở nước ngoài của đã trở nên rất quan trọng. Cung cấp công cụ thanh toán cho người du lịch, quản lý thanh toán quốc tế, nhờ thu và các thanh toán thư tín dụng, và tài trợ cho xuất nhập khẩu là một phần của dịch vụ tiêu chuẩn do các NH khu vực cung cấp. Hơn thế nữa, họ còn tư vấn các NH HTX địa phương, và nếu cần thiết thì cả khách hàng về tất cả các vấn đề kinh doanh nước ngoài. Để giúp đỡ trong lĩnh vực này, các NH khu vực đã đồng ý hợp tác với các hệ thống NH HTX ở các nước Châu Âu láng giềng. Bên cạnh đó, các NH khu vực còn có các cổ phần ở các doanh nghiệp khác của hệ thống để bảo đảm rằng các NH địa phương và khách hàng của họ tiếp cận được các công cụ như các khoản vay thế chấp, khoản vay xây dựng nhà ở, thuế, sản xuất, chứng từ vốn đầư tư, và các dạng khác của đầu tư cũng như là các dịch vụ bảo hiểm. Hơn thế nữa, các NH khu vực hoạt động như là các HTX dịch vụ và hàng hoá, và đặc biệt là cho các doanh nghiệp khu vực. Do có nền tảng chung đó, cho nên có các mối liên kết kinh doanh chặt chẽ trong khu vực này, chủ yếu mở rộng việc cung cấp các khoản vay đầu tư và hoạt động và điều khiển việc thanh toán và kinh doanh ngoại hối.Cuối cùng, các NH khu vực tiến hành hoạt động kinh doanh của họ trên tài khoản với các khách hàng thành viên, hoạt động kinh doanh này quá lớn để cho các NH địa phương trong hệ thống phục vụ cũng như là các cá nhân có giá trị tài sản ròng lớn.Không sử dụng hệ thống máy vi tính hiện đại, các NH khu vực không thể cung cấp một loạt các sản phẩm và dịch vụ như ngày nay. Vì thế, tất cả các hoạt động và đặc biệt là các hoạt động trong lĩnh vực thanh toán, cho vay, chứng khoán, kinh doanh ngoại hối được các phương tiện điện tử hỗ trợ rất nhiều, chúng đã nâng cao chất lượng và hiệu quả trong quản lý, trong các dịch vụ tư vấn và xử lý.

DG BANK - Ngân hàng Trung ương của hệ thống NH HTX Đức

Tổ chức tiền thân đầu tiên của DG BANK Deutsche Genossen là PreuBische ở Berlin: sau này nó được thành lập như là một tổ chức công pháp của nhà nước Prusia (thông qua một điều luật đặc biệt có hiệu lực vào 31/7/1895), bắt đầu hoạt động vào tháng 10 năm đó. Mục đích của chính phủ Prusia khi thành lập “PreuBenkase” là thúc đẩy sự phát triển tín dụng cá nhân được tổ chức theo phương thức HTX”Vốn cổ phần do nhà nước Prussian cung cấp, nhà nước này cũng là người đầu tiên có trách nhiệm quản lý PreuBenkasse. Nhưng có một luật quy định là PreuBenkasse được thành lập để giúp cho các HTX có được các cổ phần ở NH TW mới ngay từ lúc bắt đầu. Vào năm 1993, các tổ chức HTX này đã chiếm giữ 90% vốn của DG BANK.Việc thành lập PreuBenkasse đã đẩy mạnh việc đầu tư và tái cấp vốn cho các cơ hội đầu tư của các NH HTX, vì tổ chức này cung cấp cho họ sự liên kết với thị trường tiền tệ và NH TW quốc gia. Tuy nhiên, PreuBenkase không làm việc trực tiếp với cấp địa phương: việc kinh doanh chỉ được tiến hành qua các NH hệ thống khu vực. Điều này dẫn đến số lượng tăng lên của các NH khu vực do các NH HTX địa phương thành lập.Ngay sau khi bước sang thế kỷ mới, các NH khu vực đầu tiên đã có được các quyền lợi trong PreuBenkase, và phạm vi của các hoạt động này bắt đầu vượt ra ngoài biên giới Prussia trong những năm trước chiến tranh thế giới I. Vào năm 1930, chính phủ German Reich cũng đã có được các cổ phần vốn của PreuBenkasen, và năm 1932 NH này bị Reich kiểm soát và đổi tên thành Deutsche Zentralgenossen.Tuy nhiên, chiều hướng phát triển một NH TW đơn lẻ cho tất cả các HTX ở Đức là vẫn chưa hoàn thiện. Deutsch đã sẵn sàng thừa nhận chức năng này cho các NH HTX nông thôn, khi mà từng tổ chức do RAFF và HASS thành lập bị tan vỡ. Tuy nhiên, đối với các NH của Volk, thì tổ chức TW này vẫn do Dresdner Bank đảm nhiệm, NH này duy trì các khu vực HTX ở Frankfurt am Main và Berlin, kể từ năm 1994 nó đã mua lại “Soergel-bank” của SCHULZE-DELITZSCH. Năm 1939, NH Dresdner đã chuyển giao từng chức năng cho Deutsch và các NH HTX khu vực. Kể từ khi này, chỉ có một NH trung Ương trên toàn quốc gia ở Đức.Vào cuối chiến tranh thế giới II, NH Deutsch mất các tài sản kinh doanh vì NH này đặt ở vùng tây Berlin, vùng của Xô Viết; đầu những năm sau năm 1945, NH này đã hoạt động ra ngoài Marburg và Hamburg, cho đến khi có một tổ chức kế nhiệm của cộng hoà liên bang sau này được thành lập dưới cái tên Deutsch Genossen với trụ sở chính ở Frankfurt am Main năm1949.Giống như các tổ chức tiền thân của nó, “ DGK” là một tổ chức sát nhập theo luật công (với chính phủ liên bang và các bang tây Đức nắm giữ các cổ phần vốn chính phủ thì chỉ đạo bằng luật, còn các bang chỉ đạo bằng hợp đồng). Theo luật DGK, chức năng của NH này là “ đề xuất hệ thống HTX toàn bộ, đặc biệt là tín dụng cá nhân HTX “, nhưng các loại hình kinh doanh NH được cho phép tiến hành lại chưa được xác định chi tiết.Tuy nhiên luật DG BANK thông qua năm 1975, uỷ nhiệm chung cho NH thực hiện các loại giao dịch NH ở bất kỳ loại nào, những giao dịch trực tiếp hoặc không trực tiếp ảnh hưởng đến các mục đích của họ., vv, để cung cấp, như là một NH TW, hệ thống HTX toàn diện và để hỗ trợ cho sự phát triển của khu vực nhà ở ( phi lợi nhuận ). Trần của NH đối với việc phát hành các trái phiếu đảm bảo ( đã được cho phép vào năm 1957 ) được luật năm 1975 mở rộng, và giới hạn tối đa cho chính phủ sở hữu vốn của DG BANK, hiện nay được tổ chức hợp pháp như một công ty luật công, đã bị giảm xuống 25%.Từ khi nước Đức tái thống nhất, DG BANK cũng phải có trách nhiệm phát triển một hệ thống HTX ở đông Đức. Trong mối liên quan này, nó đã có được Genossen Berlin (GBB) - hoạt động dưới cái tên BLN cho đến 31/3/1990 và là người kế nhiệm của 5 NH khu vực Đông đức cũ của tổ chức Raiffsen, là tổ chức đã bị bắt buộc giải thể sau chiến tranh thế giới II. Chính xác hơn, DG BANK đã giao cho NH TW GBB các chức năng với 14 chi nhánh ở các quận và 800 nhân viên, trong khi đó các công việc kinh doanh khác và 176 chi nhánh địa phương vẫn tiếp tục do các NH HTX địa phương quản lý.Các NH HTX khu vực và địa phương hình thành nên nhóm khách hàng chính của DG BANK. Tất cả các dịch vụ và sản phẩm tài chính của một NH tổng hợp được cung cấp cho các NH này và cho các khách hàng tổ chức và đoàn thể ở Đức và nước ngoài.Giống như PreuBenkasse trước, DG BANK đóng vai trò như là một nhà quản lý khả năng thanh khoản của các NH HTX Đức. Nó đầu tư khoản thặng dư thanh khoản có được trong hình thức tiền gửi qua đêm và tiền gửi kỳ hạn từ hệ thống HTX vào thị trường vốn và tiền tệ ở Đức và nước ngoài và đưa ra lãi suất thị trường. Ngược lại DG BANK cũng đóng vai trò là người đi vay hệ thống HTX ; việc vay này bao gổm các khoản vay dài hạn bằng cách phát hành trái phiếu đảm bảo.Đề cập đến vấn đề giao dịch thanh toán trong hệ thống NH HTX, DG BANK phục vụ như là người phối hợp trung tâm cho Deutscher Genossen (NH chuyển khoản HTX Đức) với hơn 20.000 đại lý. Hệ thống này nối các NH HTX khu vực và các chi nhánh của DG BANK như là các trạm chuyển giao chính và tất cả các NH HTX địa phương là các trạm chuyển giao phụ. DG BANK cũng có trách nhiệm thiết lập các cán cân ở cấp quốc gia; hơn nữa, nó điều hành các trung tâm khu vực để điều khiển các giao dịch thanh toán của các NH HTX địa phương trực thuộc.DG BANK hỗ trợ công việc cho vay các khách hàng đoàn thể vừa và nhỏ của các NH HTX địa phương qua các khoản vay chung và dự phòng. NH này cũng giúp cho khách hàng tiếp cận với những khoản vay lãi suất ưu đãi từ nguồn vốn của các tổ chức xã hội. Hơn nữa, DG BANK cũng đóng vai trò như là một NH nhà ở cho công việc kinh doanh của các HTX dịch vụ và buôn bán.DG BANK cung cấp cho các khách hàng đoàn thể các khoản vay dưới hình thức “ cổ truyền và sáng tạo” từ các loại tiền qua đêm đến các khoản vay lãi suất cố định dài hạn. Tín dụng nước ngoài chủ yếu tài trợ cho việc xuất khẩu của Đức, và các chi nhánh nước ngoài và các công ty con của DG BANK cung cấp cho khách hàng các khoản vay ngoại tệ.DG BANK thực hiện một loạt các chức năng trong lĩnh vực chứng khoán thay mặt cho hệ thống NH HTX. Nó là thành viên của Uỷ ban chứng khoán liên bang và tham gia phát hành các trái phiếu và chứng khoán nước ngoài và nội địa ký thác. DG BANK cũng cung cấp các chứng từ có giá với lãi suất cố định và bảo đảm trên nền tảng liên tục. Nó cũng hỗ trợ công việc kinh doanh chứng khoán của Volk và Raiff trong việc tính toán và với khách hàng, và liên kết NH địa phương với thị trường chứng khoán qua hệ thống điều hành điện tử.Cùng với các NH HTX khu vực, DG BANK cung cấp những tư vấn về chứng khoán ở Volk và Raiff với những lời khuyên về đầu tư cho khách hàng; nó cũng đưa ra một loạt các phân tích thị trường quốc tế và nội địa cũng như là sự áp dụng thích hợp cho khách hàng. Các nhà kinh tế học của NH này cũng đưa ra các phân tích về các thị trường nước ngoài cũng như là các đánh giá kinh tế vĩ mô cho nước Đức; các số liệu thống kê của tất cả các ngành trong hệ thống HTX Đức được xuất bản hàng năm dưới hình thức các bản báo cáo đặc biệt. Thư viện của DG BANK chứa đựng một lượng lớn văn thư lưu trữ về HTX ở CHLB Đức.Các chuyên gia tư vấn khách hàng ở Volk và Raiff được GIS (Trung tâm dịch vụ thông tin Genossen) hỗ trợ rất nhiều; cùng với thông tin quốc tế và dịch vụ tư vấn quản lý tài sản của DG BANK, GIS cũng cung cấp kịp thời dữ liệu về thị trường chứng khoán và các thi trường khác trên toàn thế giới, cũng như là các tin tức kinh doanh và các cơ sở dữ liệu chứng khoán tổng hợp.Trong lĩnh vực kinh doanh nước ngoài, các dịch vụ DG BANK cung cấp cho hệ thống NH HTX tập trung chủ yếu vào các chức năng đòi hỏi sự có mặt trực tiếp hoặc chuyên môn hoá cao.Nó thúc đẩy các hoạt động nước ngoài của các NH HTX địa phương và khách hàng của họ bằng cách cung cấp các công cụ tài trợ, đầu tư, và dự phòng. DG BANK cũng xây dựng một hệ thống hoà mạng điện tử để điều khiển việc kinh doanh thương mại nước ngoài (thanh toán, kinh doanh chứng từ, bảo lãnh) với các NH địa phương.Nhờ có mạng lưới quốc tế, NH này đã có được vị trí quan trọng trên các thị trường chính ở Châu Âu; nó có chi nhánh ở London, các công ty con ở Luxemburg và Zurich, các văn phòng đại diện ở Amsterdam, Pari, Milan, và Matxcơva. DG BANK nắm giữ các cổ phần của tập đoàn Banco ở Madrid và hoạt động trên các thị trường khác qua hình thức đầu tư góp vốn ở NH Prager Handel, NH Deutsch-Ungarische, NH Frankurt Bukarest và NH Deutsch-Turkische ở nước cộng hoà Czech, Hungary, Romani, Thổ Nhĩ Kỳ.Ngoài Châu âu, DG BANK phục vụ các nhu cầu của hệ thống HTX và khách hàng qua các văn phòng chi nhánh ở New York, Atlanta, đảo Caymen, Tokyo, và Hồng Kông cũng như là các văn phòng đại diện ở Rio, Bombay, và Thượng Hải.Trong khuôn khổ của tổ chức NH UNICO, DG BANK hợp tác với các NH lớn ở Phần Lan, Thuỵ Sĩ, Hà Lan, Bỉ, Pháp, Úc, Ý; nó cũng đi đến một loạt các hiệp định hợp tác song phương với các NH hàng đầu ở các nước khác như là một phương tiện để cung cấp các dịch vụ hỗ trợ có hiệu quả tới các công ty vừa và nhỏ trong các hoạt động xuyên biên giới của họ. Hơn thế nữa, cùng với các đối tác UNICO và các NH HTX khu vực Đức, DG BANK nắm giữ vốn của tập đoàn chứng khoán Châu âu DG ở New York.Chuỗi kinh doanh nước ngoài của DG BANK đã được hoàn thành bằng việc nắm giữ NH AKA (một NH cung cấp các khoản vay tài trợ xuất khẩu trung và dài hạn) và NH DG Diskont ở Frankfurt am Main chuyên phục vụ cho việc sản xuất xuất khẩu.Tóm lại vị trí của DG Bank như là một NH TW của hệ thống HTX Đức được phản ánh qua các nhiệm vụ kinh doanh đặc biệt (trong lĩnh vực như quản lý khả năng thanh khoản).Hơn nữa, nó thiết lập nên đỉnh của hình chóp hệ thống NH HTX mà cơ cấu vốn của nó chạy từ dưới lên trên; các NH cơ sở nắm giữ vốn của các NH HTX khu vực (hoặc các công ty cổ phần khu vực), các NH khu vực lại nắm giữ cổ phần của DG BANK.Các chức năng TW của DG BANK đối với hệ thống cũng được thể hiện qua việc đầu tư góp vốn thay mặt cho hệ thống, cả trong các công ty HTX cũng như trong các tổ chức và doanh nghiệp khác ở Đức và nước ngoài. Vì kết quả của nhiều chức năng đó, DG BANK (cùng với các hiệp hội HTX trung ương) cũng đóng một vai trò quan trọng đối với chính phủ Đức cũng như các tổ chức HTX ở cấp quốc tế.

Các công ty dịch vụ tài chính chuyên môn hoá

Các khoản vay thế chấp, các khoản vay hợp đồng nhà ở, cho thuê, sản xuất, tài trợ vốn chủ sở hữu, hỗ trợ trong lĩnh vực sát nhập và thu nhận, đầu tư trong chứng khoán và bất động sản, quản lý tài sản, bảo hiểm và dịch vụ tư vấn được cung cấp cho khách hàng của hệ thống NH HTX qua một số các tổ chức tài chính chuyên môn hoá hoạt động trên khắp quốc gia mà vốn của nó do DG BANK và các NH HTX khu vực, các công ty cổ phần góp vào.Cùng với các NH HTX địa phương, các NH HTX khu vực và DG BANK, những công ty dịch vụ tài chính chuyên môn hoá xây dựng một Verbund thống nhất – một hệ thống hợp tác tự nguyện và lâu dài giữa các chủ thể độc lập hợp pháp, những chủ thể được liên kết cả về mặt tài chính và qua uỷ nhiệm của các giám đốc, và các chủ thể bán sản phẩm hoặc là trực tiếp hoặc là qua đối tác hệ thống.Các tổ chức của hệ thống cung cấp các khoản vay có thế chấp là NH Deutsche Genosen-Hypotheken AG ở Hamburg/ Berlin, và NH Munchener Hypotheken ở Munich. Trong chức năng hỗ trợ, họ cung cấp hình thức cầm cố dài hạn và các khoản vay có bảo đảm của chính phủ khi Volk và Raif không đủ nguồn lực, nhưng cả hai công ty cũng hoạt động trong thị trường rộng lớn. PreuBenkasse thành lập Deutsche Genosen- Hypotheken vào năm 1992 và vẫn còn là chi nhánh sở hữu của DG BANK. Nó cung cấp các khoản vay có thế chấp cho việc xây dựng hoặc mua các căn hộ dân cư và nhà ở tư nhân, các khoản vay dài hạn cho nông nghiệp, thương mại và ngành công nghiệp sản xuất, các khoản vay cho các cơ quan địa phương và khu vực; công việc kinh doanh này được tài trợ bằng cách phát hành các trái phiếu có thế chấp và các trái phiếu có bảo đảm chính phủ. NH Munchener Hypotheken được thành lập dưới cái tên “ Bayeirsche Landwirthschaft” vào năm 1896 và hoạt động kinh doanh với cái tên hiện tại kể từ năm 1971, là NH cầm cố duy nhất ở Đức được tổ chức hợp pháp như là một HTX đăng ký và có 70.000 thành viên. Phạm vi kinh doanh của NH này rất rộng vượt ra ngoài cả Bavaria và hiện nay nó phục vụ các khách hàng trên toàn Cộng hoà liên bang Đức. Tiếp theo sự tái thống nhất nước Đức, các NH cầm cố HTX mở rộng các hoạt động của họ sang cả các bang đông Đức. Từ khi thị trường Châu Âu đơn lẻ được hoàn thiện vào đầu năm 1993, họ cũng đã cung cấp tài chính bất động sản cho các mục đích ở nước ngoài để hợp tác với các NH HTX ở các nước láng giềng Châu Âu.Trụ sở Baus-Schwabi đã cung cấp các khoản vay hợp đồng nhà ở. Công ty được thợ thủ công thành lập ở Cologne năm 1931 với cái tên là “ Deutscher Bauspare AG”, sau đó chuyển trụ sở tới Berlin năm 1934 và đổi tên thành “Bausparsse der Volk” năm 1941 trên nền tảng hiệp định giữa Deutscher Genossen, các NH khu vực của các HTX phi nông nghiệp, Deutsche Zentralgenossen, và các tổ chức trung ương của các ngành nghề thủ công. Từ năm 1956, các trụ sở chính của NH nhà ở này được đặt ở Schwabish Hall. Vào năm 1956 tổ chức Raiffsen cũng có được các cổ phần ở Bausparkasse, tổ chức mà vẫn hoạt động kinh doanh dưới cái tên hiện tại.Từ năm 1990, Bausparksse Schwabisch Hall đã tiến hành các hoạt động của mình ở Đông Đức (vì truyền thống vẫn hoạt động ở các vùng Tây Đức) qua 2 kênh, sử dụng cả các đại diện trong lĩnh vực của mình và các NH HTX. Đối với việc tài trợ cho xây dựng dân cư ở các nước Đông và tây Châu Âu, Bausparkassen đã thành lập một văn phòng chi nhánh ở Luxemburg và liên doanh với Bratislava và Prague, nó cũng ký kết một số các hiệp định hợp tác quốc tế. Việc kinh doanh cho vay của hệ thống này được tiến hành bởi DeGeno - leasing ở Frankfurt am Main. DeGeno-Leasing là một công ty cổ phần kiểm soát các công ty cho thuê HTX: VR-Leasing của Volk và Raiff ở Unterfohring, DG LEASING ở Frankfurt am Main, DG IMMOBILLEN-LEASING ở Eschborn, DG BAUREGIE, cũng ở Eschborn, và BFL BURO Fachhadel Leasing ở Frankfurt am Main. Các công ty cung cấp một loạt các dịch vụ bao gồm tất cả các loại cho thuê thiết bị (đặc biệt là ô tô, máy móc, máy tính, và các thiết bị văn phòng) cũng như là cho thuê bất động sản. Từ năm 1990, nhóm này cũng rất năng động ở Đông Đức qua các văn phòng chi nhánh và các đại lý tiếp thị.DG Diskontbank ở Frankfurt am Main cung cấp các dịch vụ trong lĩnh vực “ factoring “ ( nói cách khác, mua lại các khoản phải thu từ việc mua bán hàng hoá và dịch vụ bao gồm rủi ro thất thoát vốn). Công ty này được thành lập vào năm 1963 ở Mainz dưới cái tên “ International Factors Deutsch-Land AG & Co”. Khi nó được DG BANK mua lại vào năm 1978, nó được đổi tên lại là DG Diskontbank và chuyển trụ sở chính đến trung tâm NH ở Frankfurt am Main năm 1986. Ngoài việc cung cấp các dịch vụ “factoring “ quốc tế và trong nước, NH này cũng năng động trong lĩnh vực thanh toán trung tâm hoá và các giao dịch chứng từ giữa người cung cấp và các thành viên của hiệp hội mua; cũng có các rủi ro thất thoát vốn trong lĩnh vực này. Các sản phẩm do NH DG Diskont cung cấp bổ sung một loạt các dịch vụ mà Volk và Raiff cung cấp cho các khách hàng hợp tác vừa và nhỏ trong ngành thương mại và công nghiệp.Công ty của hệ thống tài trợ vốn chủ sở hữu là Beteiligungs-gesellschaft ở Frankfurt am Main, hoạt động sát cánh với các công ty đầu tư mạo hiểm và công ty hợp tác khu vực, trong số các công ty này hệ thống HTX chiếm giữ các cổ phần. Mục đích của công ty này là củng cố nền tảng vốn của các công ty vừa và nhỏ. AGAB trực thuộc hệ thống HTX, cho phép các công ty vừa và nhỏ tự giúp ích cho mình một cách gián tiếp trong việc đầu tư qua thị trường chứng khoán.Tổ chức đầu tư hợp tác DG ở Frankfurt am Main hỗ trợ cho các khách hàng hợp tác trong lĩnh vực sát nhập và chiếm hữu. Các dịch vụ mà nó cung cấp cũng bao gồm việc chuyển đến sự tư vấn và quan hệ đối tác về vốn trong lĩnh vực tư nhân hoá ở Đông Đức.Các cổ phần trong các vốn đầu tư quản lý các danh mục đầu tư trái phiếu và cổ phiếu lớn được liên đoàn đầu tư Gessellschaft Frankfurt am Main bán, liên đoàn này được các NH HTX khu vực và các nhà NH tư nhân nước ngoài thành lập như là một trong những công ty có vốn chung đầu tiên ở Đức năm 1956, và cũng được DEVIF thành lập, một công ty do DGB xây dựng lên năm 1970. Công ty đầu tư liên đoàn quản lý các vốn riêng lẻ và các vốn có mục đích đặc biệt cho các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân từ các vốn chung dựa trên cổ phần và trái phiếu cho đến các vốn trên thị trường tiền tệ. DEVIF quản lý các quỹ có mục đích đặc biệt cho các nhà đầu tư thuộc các tổ chức; khách hàng của nó bao gồm các công ty bảo hiểm, các NH HTX, các quỹ hưu trí và các tổ chức tương tự.DFIA, DEFO, DG ANLAGE và DG IMMOBILLEN cung cấp các phương tiện đầu tư bất động sản. DIFA thành lập ở Hamburg năm 1965 như là Immobilien AG và đổi tên năm 1980. Nó quản lý các quỹ bất động sản mở cho các nhà đầu tư cá nhân và các quỹ có mục đích đặc biệt cho các nhà đầu tư thuộc các tổ chức. DG ANLAGE được DG BANK thành lập năm 1981 và cung cấp các quỹ bất động sản đóng cho các cá nhân có giá trị ròng cao. DG IMMOBILLEN năng động trong lĩnh vực quản lý và phát triển dự án bất động sản, quản lý và cho thuê tài sản.Công ty hệ thống quản lý tài sản là DG CAPITAL MANAGEMENT ở Frankfurt am Main, thành lập năm 1987 để quản lý riêng các danh mục đầu tư cổ phiếu lớn thay mặt cho các tổ chức và khách hàng cá nhân. Nó cũng cung cấp các danh mục đầu tư đặc biệt như là tài tkoản “ DG Capital Oko 2000 “, tài khoản này phát triển vào năm 1989 như là phương tiện đầu tiên của Đức để đầu tư cổ phiếu của các công ty đang ký năng động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.GEBI thành lập năm 1989 cung cấp các dịch vụ tư vấn các khách hàng hợp tác vừa và nhỏ về các vấn đề liên quan đến thị trường Châu Âu đơn nhất. GEBI chủ yếu giúp các khách hàng tìm kiếm các đối tác hợp tác và kinh doanh ở các khu vực khác của liên minh Châu Âu, một dịch vụ sẽ trở nên quan trọng trong những năm tới.Chi nhánh bảo hiểm của hệ thống HTX này là tập đoàn bảo hiểm R+V, tập đoàn bảo hiểm này bao gồm 7 công ty bảo hiểm chính và một công ty bảo hiểm lại dưới sự điều hành của một công ty cổ phần. R+V có từ năm 1922, khi Generalverband der Raiff – Genossen ở Berlin thành lập 2 công ty bảo hiểm chung, tên là Raiff Allgemenie Versicher và Raiff Lebensver. Trong lúc này, dịch vụ đưa ra bao gồm không chỉ bảo hiểm nhân thọ và tài sản (2 công ty) mà còn có bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm vật nuôi, bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm các chi phí luật pháp.Lúc bắt đầu tập đoàn bảo hiểm này chỉ hoạt động kinh doanh với các HTX nông nghiệp, nhưng sau thế chiến II, nó bắt đầu làm việc với các HTX phi nông nghiệp; vì thế nó đổi tên là “Raiffeisen-und Volkbanken- Versicherung” năm 1958; ngày nay nó được gọi là “ R+V Versicherung im Finanz Verband der Volk Raiff “. Phần lớn cổ phần là của các NH HTX khu vực và DG BANK. Sau năm 1945, tập đoàn này chuyển trụ sở chính từ Berlin về Wiesbaden. ở đông Đức, cơ cấu này được R+V thiết lập, là cơ cơ cấu đã chứng minh được sự thành công ở Tây Đức – chiến lược kép cung cấp các sản phẩm qua Volk và Raiff cũng như là qua mạng lưới các chi nhánh khu vực và các văn phòng địa phương.Để thúc đẩy công việc kinh doanh ở thị trường đơn, R+V đã ký kết một số hiệp định hợp tác với một vài hệ thống NH HTX ở những nước Châu Âu khác. Mục đích của sự hợp tác này là đưa ra sự hỗ trợ lẫn nhau trong việc cung cấp các dịch vụ xuyên biên giới cho từng khách hàng.Các công ty thuộc hệ thống cung cấp sự hỗ trợ và tư vấn cho các khách hàng hợp tác trong ngành nông nghiệp và thực phẩm là DG AGROPARTERS ở Frankfurt am Main ( thành lập năm 1985 ) và DG AGROPROGRESS INTERNATIONAL (thành lập năm 1966). Cả 2 công ty này đều cung cấp các dịch vụ tư vấn và hỗ trợ cho các dự án trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, chế biến và tiếp thị. DG Consult Unter ở Frankfurt am Main trong tương lai sẽ cung cấp các dịch vụ tư vấn cho các khách hàng hợp tác. Trong khi các sản phẩm và dịch vụ do các công ty này cung cấp đã trình bày ở trên được thiết kế để phục vụ cho các nhu cầu của các khách hàng trong các NH hợp tác, một số các công ty khác lại cung cấp các dịch vụ cho các khách hàng hợp tác trong hệ thống trong các lĩnh vực tổ chức NH, thông tin, xử lý dữ liệu điện tử, xây dựng các hệ thống, và quảng cáo.Tổ chức được chuyên môn hoá trong việc phát triển và thực hành các ứng dụng EDP là Betriebswirt Institut der Deutschen Kredit BIK ở Frankfurt am Main. BIK thành lập năm 1968, mới đầu được sát nhập do luật dân sự. Vào lúc này, tổ chức chuyên môn hoá xử lý dữ liệu của các doanh nghiệp HTX đã hoạt động được 10 năm theo hình thức các phương tiện giữ sổ sách chung mà từ đó các trung tâm máy tính HTX khu vực hình thành trong những năm 1960, và BIK được thành lập với mục đích tiêu chuẩn hoá các chức năng xử lý dữ liệu tự động cho toàn bộ hệ thống NH để đảm bảo việc điều khiển cạnh tranh và hiệu quả doanh số ngày càng tăng của các giao dịch thanh toán. Những nỗ lực này đã tạo nên nền tảng tài chính mở rộng hơn khi BIK chuyển đổi thành một GmbH ( công ty trách nhiệm hữu hạn ) năm 1972.Ngày nay, BIK là HTX TW “nhà ở phát triển phần mềm“ và phát triển, thực thi các dự án EDP về xử lý tự động của (chủ yếu) các giao dịch NH và chứng khoán cũng như là thông tin quản lý và các mục đích kiểm soát trong các NH HTX. Trong tất cả các lĩnh vực này, BIK hợp tác chặt chẽ với các trung tâm máy tính HTX khu vực. Nó cũng cung cấp các dịch vụ trung tâm máy tính cho các mục đích xử lý thông tin điện tử.Công ty hệ thống cung cấp thông tin thị trường là Genossen Information Service GIS GmbH ở Frankfurt am Main, được thành lập vào năm 1985. Công ty này sử dụng hệ thống điện tử và liên lạc vệ tinh để cung cấp dữ liệu thị trường chứng khoán và dữ liệu thị trường khác, các tin tức kinh doanh và thông tin về sản phẩm và các công ty trong hệ thống tài chính HTX. Đây là điều đặc biệt quan trọng cho các nhà tư vấn khách hàng ở Volk và Raiff để bảo đảm dịch vụ hiệu quả tới khách hàng, đặc biệt khi đề cập tới vấn đề đầu tư trong thị trường chứng khoán.Deutscher Gennosen-Verlag ở Wiesbanden và Raiffeisendruckerei ở Newied chuyên môn hoá các hình thức và ấn phẩm. DG Verlag thành lập năm 1920 ở Berlin và chuyển đến Wiesbaden năm 1949. Nó hợp tác với Bayerischer Raiffeisen und Volkbanken- Verlag ở Munich trong việc cung cấp các sản phẩm cho các NH HTX địa phương ở Nam Đức. Kể từ năm 1990, các đại lý phân phối ở Tây Đức đã được bổ sung thêm các đại lý mới ở Đông Đức. Một loạt các sản phẩm và dịch vụ bao gồm các hình thức, văn học, các chương trình đào tạo, tổ chức văn phòng, các hoạt động PR và tiếp thị. Các ấn phẩm do Raiffeisendruckerei sản xuất có từ năm 1881 do FRIEDRICH WILHELM RAIFFEISEN.Công ty quảng cáo trung ương của hệ thống là Center-Werbung ở Bonn. Nó được thành lập năm 1964, các hoạt động tập trung vào việc thực hiện các khái niệm quảng cáo HTX phát triển chung. Các dịch vụ được Center-Werbung cung cấp cho phép Volk và Raiff đánh giá lạc quan về các ngân sách quảng cáo qua phạm vi kinh tế.

Cơ cấu hiệp hội

Hiệp hội trung ương của hệ thống HTX Đức là Bunder der Deutschen Volk und Raiff với trụ sở chính ở Bonn. Nó hình thành từ khi có việc tái tổ chức cơ cấu hiệp hội HTX sau thế chiến II và tiến hành kinh doanh năm 1972. BVR đại diện cho các lợi ích nghiệp vụ đặc biệt của Volk và Raiff và các lợi ích cơ bản trong lĩnh vực chính sách kinh tế, những cái mà trước đây là các chức năng của Deutscher Raiff và Deutscher Genosenchatfverband.Deutscher Genossen und Raiff ở Bonn là tổ chức bảo trợ của các HTX Đức và nói lên những quyền lợi của các NH HTX trong các vấn đề liên quan đến tổ chức HTX.Các thành viên của BVR bao gồm các NHHTX địa phương, NH HTX khu vực, DG BANK và các tổ chức, công ty khác trong hệ thống tài chính cũng như là các hiệp hội kiểm toán liên bang chuyên môn hoá, có trách nhiệm bảo vệ các quyền lợi của thành viên trong lĩnh vực của chính sách tài khoá, lập pháp và kinh tế cũng như là hành chính liên bang, lập pháp và các cục, chính quyền và công chúng.BVR đưa ra nhừng lời khuyên cho các thành viên về các vấn đề quản lý, kinh tế, tài khoá, luật pháp. Nó điều hành một trung tâm dịch vụ thông tin, xuất bản tạp chí “ Thông tin NH và diễn đàn Genossen “ và tổ chức các cuộc họp, các cuộc hội thảo. Các chức năng của nó cũng bao gồm thiết lập, duy trì và hỗ trợ các phương tiện đào tạo; chú ý đặc biệt hướng về khu NH của Akademic Deutscher Genosen ở Montabaur Castle nơi mà các uỷ viên ban quản trị cấp trên và tương lai được đào tạo.Hơn nữa, BVR còn có trách nhiệm thành lập và quản lý các tổ chức bảo lãnh cho các NH HTX. Volk và Raiff là những NH ở Đức đầu tiên thiết lập hệ thống bảo hiểm chung.Đầu năm 1930, các hiệp hội khu vực thiết lập lên các tổ chức bảo lãnh tiền gửi, các tổ chức mà năm 1937 được hợp nhất lại để thành lập một hiệp hội bảo lãnh quốc gia dưới sự bảo trợ của hiệp hội trung ương của các HTX phi nông nghiệp ở Đức, Deutscher Genosen. Theo tình trạng của Kreditgenosen Garantiefonds des Deutschen Genossen, mục tiêu của nó là “hành động nhanh, hiệu quả trong trường hợp các vấn đề bất ngờ nảy sinh ở các HTX tín dụng phi nông nghiệp, để ngăn cản sự quấy rối giữa các cổ đông, những người có trách nhiệm đóng vốn nhiều hơn nữa khi được kêu gọi, và để tăng hơn nữa tính đảm bảo của các loại tiền gửi tiết kiệm, các quỹ được ký thác, và các cán cân tài khoản vãng lai của khách hàng. Năm 1944, hiệp hội trung ương của các HTX nông nghiệp ở Đức, Reichsverband der deutschen Genossen – Raifeisen cũng thiết lập một quỹ bảo vệ HTX với những mục tiêu tương tự.Ngày nay tổ chức bảo lãnh của BVR là tổ chức chung của Volk và Raiff. Nó bao gồm một quỹ bảo lãnh và quỹ vốn chung bảo lãnh. Tuỳ theo các trường hợp, quỹ này đưa ra việc bảo lãnh, các khoản cho vay, hoặc cấp tiền mặt, những hình thức này được tài trợ bằng việc thu thuế các thành viên của hiệp hội liên quan đến tổng các khoản cho vay của từng NH thành viên; quỹ vốn chung bảo lãnh cung cấp các khoản bảo lãnh cho NH nào mắc nợ dự phòng lên tới tỷ lệ phần trăm nhất định của các quỹ dự trữ giá trị toàn cầu trên bảng kết toán của từng NH.Bên cạnh tiền gửi của các thành viên và các khách hàng khác, hệ thống bảo lãnh của BVR cũng bảo vệ sự tồn tại của mọi NH thành viên, cho thấy rằng NH này duy trì tính thận trọng và quan tâm đúng đắn đến các hoạt động của mình. Ở cấp khu vực, các NH HTX địa phương là thành viên của các hiệp hội khu vực, quan hệ thành viên của các hiệp hội này bao gồm các HTX thương mại nông nghiệp và phi nông nghiệp, các HTX dịch vụ. Các hiệp hội khu vực này làBadischer Genossen Raiff, ở KarlsruheGenossen Bayern, ở MunichGenossen Berlin-Hannover, ở HanoverGenossen Hessenk/ Rheinland, ở Frankfurt, Neu-IsenburgGenossen Rheiland, ở CologneGenosen Sachsen, ở DresdenGenossen Weser-Ems, ở OldenburgNorddeutscher Genossen, ở KielSaarlandischer Genossen, ở SaatbruckenWestfalischer Genossen, ở MunsterWurttembergischer Genossen Raiffeisen, ở StuttgartPhần lớn các NH HTX địa phương ở đông Đức gia nhập các hiệp hội ở các khu vực lân cận của Tây Đức. Ngoại trừ một số hiệp hội nhỏ hơn ở đông Đức, những hiệp hội nhanh chóng từ bỏ sự tồn tại độc lập của mình, hiệp hội duy nhất mới được thiết lập từ khi có sự tái thống nhất đất nước là Genossen Sachsen. Các hiệp hội khu vực tiến hành kiểm toán bắt buộc cho các NH HTX địa phương và năng động trong lĩnh vực tư vấn, đào tạo và hỗ trợ thông thường.Trong 2 trường hợp, sự phát triển đặc biệt dẫn đến việc thành lập các hiệp hội kiểm toán chuyên môn hoá, tên là Verband der Sparda-Banken ở Frankfurt am Main, thành lập năm 1906, và Verband der Post-Spar-und Darehnsverein ở Bonn, thành lập năm 1938. Cả hai hiệp hội kiểm toán đều hoạt động trên toàn quốc qia nhưng chủ yếu vẫn có những nhiệm vụ tương tự như các Hiệp hội khu vực.

Sức mạnh kinh tế của hệ thống NH HTX

Vào cuối năm 1993, hệ thống NH HTX Đức đã kết hợp gần 2.800 các NH HTX địa phương, 3 NH HTX khu vực và DG BANK Deutsche Gennossen cũng như là 25 công ty tài chính chuyên môn hoá.Hơn 2/3 NH ở CHLB Đức là NH HTX, vào cuối năm 1993, họ duy trì khoảng 17.600 văn phòng, và tổng 20.400 đại lý của họ, điều này khiến cho họ trở thành mạng lưới NH liên kết chặt chẽ ở Châu Âu.Chính sách NH HTX định hướng hỗ trợ cho các cổ đông/ thành viên của các NH HTX. Vào cuối năm 1993, các NH HTX đầu tiên có 12,6 triệu cổ đông. Cứ một trong bảy người dân của CHLB Đức có một người là cổ đông của một NH HTX, và bao gồm các khách hàng khác, cứ ba người trưởng thành lại có một người hoạt động kinh doanh với một NH HTX địa phương. Trung bình, các NH HTX đầu tiên có 4.600 thành viên, với con số từ ít hơn 500 cho đến lớn hơn 70.000 thành viên.ở CHLB Đức ngày nay, chính sách NH HTX chủ yếu tập trung vào tầng lớp trung lưu, bao gồm những công chức có địa vị và có lối sống cao cũng như là các thương nhân, thợ thủ công, nông dân và các thành viên của các ngành nghề khác.Khoảng 57% cổ đông của các NH HTX là người làm công, 6% tham gia kinh doanh, làm nghề thủ công và sản xuất, 5% là nông dân, 3% là tự làm thuê trong ngành dịch vụ và các ngành nghề, và 29% là các cá thể khác.Mối quan hệ mật thiết giữa NH HTX và tầng lớp trung lưu cũng được nhấn mạnh bởi thực tế là có 60 % thợ thủ công, 75% người buôn bán, và 80% nông dân là cổ đông của NH Volk hoặc Raiff.Tổng cộng tài sản có của các NH HTX địa phương là khoảng 760 tỷ DM vào cuối năm 1993, và trung bình một NH là 270 triệu DM, trong khi tổng tài sản có của các NH địa phương từ chỗ chưa đến 10 triệu DM cho đến hơn 10 tỷ DM. NH HTX đầu tiên lớn nhất ở Đức, với tổng tài sản là 17,6 tỷ DM và 78.000 thành viên (1993), là NH Deutsche Apotheker-und Arzte ở Dusseldorf hoạt động kinh doanh trên toàn quốc với hầu như một nửa thành viên là làm việc trong lĩnh vực dịch vụ y tế và sức khoẻ. NH HTX địa phương lớn nhất là NH Berliner Volks ở Đông Đức, với tổng tài sản là 13,6 tỷ DM và 72.000 thành viên trong năm 1993.Gộp lại, 3 NH HTX khu vực có tổng tài sản là 97 tỷ DM vào năm 1993. NH khu vực lớn nhất là NH Westdeutsche Genossen-Zentral ở Dusseldorf, với tổng tài sản là 36,6 tỷ DM.Vào cuối năm 1993, NH TW của hệ thống NH HTX Đức, DG BANK, báo cáo tổng tài sản có là 130 tỷ DM và hợp nhất tổng tài sản có là 221 tỷ DM trở thành NH đứng vị trí thứ 9 ở Đức. Vào cuối năm 1993, NH này đã có số lượng nhân viên là 5026 người ở Đức và nước ngoài. Một số các tổ chức tài chính chuyên môn hoá của hệ thống NH HTX Đức đứng vị trí hàng đầu ở từng thị trường; NH Deutsche Genossen-Hypotheken là một trong những NH cầm cố lớn nhất, NH Bausparkasse Schwabisch Hall là NH cho vay nhà ở có số lượng khách hàng cao nhất, và NH DG Diskon là NH “ factoring” lớn nhất và lâu đời nhất ở CHLB Đức. Hiệp hội đầu tư Gesellschaft và DIFA chiếm vị trí cao trong số các công ty quản lý quỹ đầu tư Đức, và nắm giữ tập đoàn bảo hiểm R+V trong ngành công nghiệp bảo hiểm. Công ty cho thuê DeGeno dự đoán thị phần của nó là ở mức 7%. Nỗ lực đưa các thành viên ra nước ngoài đã thúc đẩy các NH HTX thành lập một hệ thống tài chính tổng hợp trước các nhóm NH khác. Với một loạt các sản phẩm toàn diện và các kênh phân phối hiệu quả với chi phí hợp lý, các nhà quan sát trung lập đã mô tả mạng lưới HTX là mô hình tài chính toàn diện thành công ở Đức với các khía cạnh phát triển xuất sắc. Cùng với cái gọi là các NH tín dụng, các công ty chứng khoán chung và tổ chức các NH tiết kiệm trong thành phố, các NH HTX xây dựng lên một khu vực của các NH “đa năng”, là mẫu NH điển hình của Đức. Trong số 3 nhóm NH “đa năng”, hệ thống NH HTX chiếm thị phần là 19,3 % trong mục tổng tài sản vào cuối năm 1993. Vào cuối năm 1950, thị phần này là 14,6 %. Cùng thời gian, thị phần của các NH HTX trong kinh doanh cho vay tăng từ 12,4% lên 18,1%, vị trí thị trường của các NH đặc biệt mạnh trong việc cho vay trồng rừng và nông nghiệp ( 48% ), xây dựng và các ngành công nghiệp thực phẩm (mỗi ngành 32% ) và thủ công (28% ). Một phần ba khoản vay ưu đãi cấp theo chương trình công cộng cho kinh doanh vừa và nhỏ được các NH HTX kiểm soát.Khi việc kinh doanh tiền gửi với các tổ chức phi NH càng được quan tâm, thì thị phần của hệ thống HTX thậm chí càng mạnh hơn trong khu vực cho vay khách hàng, thể hiện ở chỗ thị phần đã lên tới 25,2%; vào cuối năm 1950 thị phần này mới chỉ gần 13,1 %. Chỉ riêng trong lĩnh vực tiền gửi tiết kiệm và các giấy chứng nhận tiết kiệm, thị phần của hệ thống HTX đã rất cao, 27,5%.Trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, một phần năm tài khoản giám hộ an toàn cá nhân ở Đức là do NH HTX kiểm soát; trong năm 1962 chỉ là một phần chín. Các NH HTX cũng có một vị trí mạnh trong kinh doanh chứng khoán với các cá nhân có giá trị tài sản ròng cao.Vị trí thị trường của các NH HTX được mở rộng không ngừng từ cuối chiến tranh thế giới lần II đến giữa các năm 1980 và từ đó ổn định ở mức phát triển. Đặc biệt, từ khi việc mở các chi nhánh mới được tự do hoá vào năm 1958, và hiệp định quy định lãi suất cho ngành NH được chấm dứt vào năm 1967, hệ thông NH HTX với mạng lưới chi nhánh liên kết chặt chẽ, có thể khai thác tiềm năng đáng kể của mình bằng cách ứng dụng các kỹ thuật xử lý dữ liệu điện tử ở giai đoạn rất sớm, bằng cách thực hiện công việc sát nhập để xây dựng lên các đơn vị NH lớn hơn, qua các hoạt động thị trường chung, mở rộng một loạt các dịch vụ và phát triển hơn nữa các cơ sở đào tạo.Các NH HTX ở Đông Đức đã thành công trong việc chuyển đổi sang các điều kiện khác trước một cách cơ bản từ năm 1990.Các lý do quyết định cho việc củng cố vị trí thị trường của Volk và Raiff là quy mô thích hợp của từng lĩnh vực kinh doanh, mối ràng buộc chặt chẽ với cộng đồng kinh doanh địa phương, và linh hoạt trong quản lý tự trị ở cấp địa phương. Những yếu tố này tạo nên một nền tảng vững chắc cho các quyết định nhanh chóng và không quan liêu, cho việc duy trì mối liên kết mật thiết với tất cả khách hàng, và cho việc thành lập mối quan hệ kinh doanh lâu dài. Kết quả là các NH HTX có thể thoả mãn cả những nhu cầu của cổ đông và đòi hỏi của thị trường.

PHẦN 3 - NHỮNG ĐẶC TÍNH CƠ BẢN CỦA HỆ THỐNG HỢP TÁC XÃ ĐỨC

Khái niệm HTX

Như chúng ta đã giải thích trong phần giới thiệu, khái niệm “HTX chủ nghĩa” đã có truyền thống lâu đời ở Đức. Thậm chí nếu chúng ta không tính đến các cơ cấu tương ứng trong thời kỳ đầu và thời kỳ trung cổ của nước Đức, thì truyền thống này vẫn bắt nguồn từ những năm 1850. Mặc dù đã có nhiều thay đổi trong đối tượng sở hữu và vận hành hợp tác xã cũng như trong bản thân các HTX và môi trườn của chúng, nhưng những mối quan hệ trong “xã hội HTX” có những yếu tố đặc trưng nhất định có giá trị qua suốt chiều dài lịch sử.Hoạt động kinh tế được tổ chức theo kiểu HTX có nghĩa là các doanh nghiệp hoặc các hộ gia đình tình nguyện chuyển toàn bộ hoặc một phần các chức năng chính nhất dịnh (ví dụ như bán các sản phẩm nông nghiệp) và trên cơ sở lâu dài cho một chủ thể kinh tế riêng biệt, tức các

Doanh nghiệp HTX - một doanh nghiệp mà họ cùng đồng sở hữu và cùng điều hành trong khi vẫn duy trì tính độc lập cho tất cả các mục đích khác.Những dự tính của các thành viên liên quan đến loại hoạt động này là những dự tính hoàn toàn có lý; Các sáng lập viên và các thành viên sau này của một HTX bắt đầu từ giả định rằng các chức năng hoạt động chung và tập thể tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi thành viên hơn khi so sánh với các chức năng hoạt động kinh tế đơn lẻ (trên phạm vi kinh tế). Nhìn từ góc độ này, một HTX là kết quả phấn đấu của thành viên cho lợi ích kinh tế. Đối với các hộ tư nhân, nó thúc đẩy việc tăng thu nhập trong khoảng thời gian nhất định; đối với công việc kinh doanh của thành viên, mục đích của nó là giảm chi phí và/hoặc bảo đảm lợi nhuận cao đi đôi với việc duy trì tính độc lập.Yêu cầu cơ bản của các HTX là thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các thành viên; yêu cầu cơ bản này là “chung cho tất cả các HTX ở tất cả các nước ở tất cả mọi thời điểm; nó là đặc điểm cơ bản hay có thể gọi là tôn chỉ của mô hình HTX” (trích dẫn của ERICK BOETTCHER); Một HTX là hiệp hội của một nhóm các cá thể năng động về kinh tế, những cá thể có mục đích thúc đẩy hoạt động của họ (các hộ gia đình hoặc các doanh nghiệp) qua một doanh nghiệp đồng sở hữu và điều hành.Mục đích chủ yếu trong việc quản lý kinh tế các HTX (không đề cập đến loại hình, và sự độc lập của các giai đoạn phát triển chủ nghĩa HTX hiện đại) có thể được bổ sung thêm các mục đích phi kinh tế, như là nỗ lực bảo vệ đặc tính dân tộc hoặc để đạt được các mục đích tôn giáo hoặc cải cách trong lĩnh vực xã hội. Tuy nhiên, như Hans-Jurgen Seraphim vào đầu năm 1956 - 1958 đã nêu ra rằng “chiều hướng các mục đích phi kinh tế ngày càng giảm tính quan trọng”. Vì thế các mục đích như vậy không phải là trung tâm đối với các doanh nghiệp HTX, ngay cả khi các mục đích phi kinh tế dường như đang trải qua một thời kỳ phục hưng ở những cái gọi là “các HTX thay thế ” hoặc “các HTX mới”. Ngược lại, sự thúc đẩy kinh tế của các hộ gia đình thành viên hoặc các doanh nghiệp là mục đích thiết yếu của các HTX.HTX này chỉ là một hình thức hợp tác kinh tế. Nó có đặc trưng là những người sẵn sàng hợp tác với nhau sẽ thiết lập và duy trì một doanh nghiệp được đồng sở hữu và điều hành dựa trên cơ sở tự lực tự chủ bằng các phương tiện mà qua đó họ cố gắng thúc đẩy các hoạt động kinh doanh của bản thân họ. Điều đó có nghĩa là các thành viên cũng đồng thời là khách hàng hoặc người cung cấp của HTX họ. Trong mối liên hệ này, ngành khoa học HTX nói về nguyên tắc đồng nhất; giống như là yêu cầu phát triển, nó là trung tâm của khái niệm về hợp tác trong một HTX.

Luật HTX của Đức nhấn mạnh ưu thế yếu tố cá nhân của HTX trong nhiều điều khoản. “Sau này đó là đặc tính cơ bản thứ ba của các HTX, nguyên tắc thủ tục dân chủ, nguyên tắc được coi là đi cùng với yêu cầu phát triển và nguyên tắc đồng nhất. Vì tầm quan trọng to lớn của nguyên tắc thứ ba, chúng ta sẽ đề cập riêng ở phần sau. Về điểm này, có thể nói rằng trong các định nghĩa trước đây về HTX, yếu tố cá nhân là rất quan trọng, như Reinhold Henzler và Georg Drahem đã nói: “Xã hội HTX là hiệp hội của những người với mối quan hệ thành viên mở rộng được thành lập nhằm mục đích thúc đẩy công việc kinh doanh của các thành viên bằng các phương tiện và phương pháp phù hợp, cụ thể là các phương tiện của một doanh nghiệp được đồng sở hữu và đồng điều hành, cùng với yêu cầu cơ bản". “ Mọi HTX đều có trạng thái kép". Nó luôn là :

    • một hiệp hội của nhiều người, một "nhóm" được định nghĩa bằng xã hội học và tâm lý học. Những thành viên của nhóm này là những cá nhân, những người sở hữu HTX.
    • một thực thể kinh doanh chung của các doanh nghiệp thành viên. Những người sở hữu thực thể này cũng chính là những cá nhân thành lập nên "nhóm" này. 

Mặc dù trong những lần xuất bản sau này, Drahem đặc biệt thừa nhận rằng mối quan hệ xã hội giữa các thành viên trong nhóm đã mất đi tầm quan trọng, trạng thái kép của HTX vẫn còn là một trong những nhân tố đặc trưng, nó cũng được nhấn mạnh hơn trong những lần xuất bản gần đây.

Vì thế các đặc tính cố định của hoạt động kinh tế tổ chức theo mô hình HTX là những nguyên tắc của phát triển, đồng nhất và dân chủ.

Mặc dù các nhân tố đặc trưng đó vẫn giữ nguyên qua các giai đoạn phát triển, môi trường hoạt động của các HTX, hoạt động của HTX cũng như các chủ thể của HTX đã có rất nhiều thay đổi : hầu hết các HTX ở Đức ngày nay không còn hoạt động trên các phân đoạn của thị trường nữa, ngược lại họ đã đã phải cạnh tranh một cách toàn diện, họ chấp nhận cạnh tranh và tăng cường cạnh tranh vì sự sống còn của mình. Để đáp ứng yêu cầu của các thành viên về các dịch vụ, các HTX đã thực hiện thành công cái gọi là kinh tế hoá- một quá trình trung tính và đồng chất với quá trình cơ chế hoá. Theo Draheim, khái niệm kinh tế hoá bao gồm các biện pháp dựa trên nguyên tắc kinh tế nhằm đạt được sự tổ chức hiệu quả của hợp tác xã. Chính vì vậy, ngày nay ở CHLB Đức còn rất ít các HTX theo kiểu sơ khai và chưa mang đầy đủ các đặc điểm của một doanh nghiệp. Ngược lại, tồn tại phổ biến kiểu HTX-liên hệ thị trường (tức là các HTX cạnh tranh toàn diện, có một ban quản trị chuyên trách, và mối quan hệ về kinh doanh giữa cá nhân và HTX là theo quan hệ thị trường) và kiểu HTX hợp nhất, trong đó hoạt động kinh doanh của các cá nhân là có liên hệ với hoạt động kinh doanh của HTX của họ. Trong quá trình phát triển, hình ảnh và các tập tục quản lý của HTX ngày càng trở nên giống với các hình thức doanh nghiệp khác. Theo Draheim, những thay đổi quan trọng nhất của các HTX hiện đại là một mặt thành viên càng ngày càng chú trọng về hiệu quả kinh tế và mặt khác đó là các tất yếu khách quan cơ chế thị trường.Tuy nhiên, với nguyên tắc tập thể, các phản ứng lại các thách thức này là không cục bộ mà là sự cộng tác trong khuôn khổ hợp nhất cả quốc gia giữa các bạn đồng hành, và tăng cường liên tục sự cộng tác này. Theo cách đó, các HTX sẽ có thể duy trì được cấu trúc phi tập trung của các đơn vị tự chủ mà vẫn có khả năng cạnh tranh và đáp ứng được yêu cầu phát triển của các thành viên. Sự tăng cường hợp tác trong hệ thống HTX do vậy không phải là thay cho sự cục bộ mà là quy trình hành động có mục đích và độc lập dựa trên sự tự tin và sự nhận thức rõ ràng các mục tiêu. Quy trình hành động này sẽ bảo tồn được các đặc tính cơ bản của HTX cũng như các cấu trúc lãnh thổ và cá biệt điển hình của HTX. Trong một môi trường như vậy, nguyên tắc của HTX về thủ tục dân chủ sẽ có điều kiện để phát huy.

Nguyên tắc thủ tục dân chủ

Nguyên tắc thủ tục dân chủ trong HTX bắt nguồn từ ưu thế yếu tố cá nhân trong HTX. Luật Đức về HTX thiết lập nên một loại hình doanh nghiệp trong đó quyền lợi của các thành viên không phụ thuộc vào số lợi tức của họ, quyền lợi được phân chia công bằng cho các cổ đông ở cùng mức độ như những người khác. Mối quan hệ cá nhân của những người hợp tác trong phạm vi HTX của họ khiến cho xã hội này trở thành một tổ chức dựa trên luật cá nhân. Những người xây dựng nên chủ nghĩa HTX hiện đại, và đặc biệt là Hermann-Deltzsch, người sáng lập nên Luật HTX Đức, có tư tưởng dân chủ trực tiếp khi họ đặt ra những quyền lợi thành viên trong việc tham gia quản lý HTX. Trong HTX vào thời điểm còn nhỏ và dễ kiểm soát, thì việc đưa ra các mục tiêu là quá trình từ dưới lên trên - không chỉ là vấn đề về nguyên tắc mà còn là vấn đề cụ thể; đại hội thành viên (bao gồm tất cả các thành viên HTX) sẽ có các cơ cấu đưa ra quyết định tối cao và ban đầu không chỉ có (như ngày nay) trách nhiệm đối với sự thay đổi về luật và những vấn đề như chỉ định và bãi nhiệm các thành viên trong ban kiểm soát, mà còn được phép tham gia quyết định về các vấn đề quản lý cá nhân. Ban kiểm soát cũng từng có quyền này. Tuy nhiên, sự phân chia các cấp quản lý đã dẫn đến sự thiếu rõ ràng trong nhận thức trách nhiệm, đây là một vấn đề mà trong giai đoạn đầu phát triển HTX, được gắn với khái niệm dân chủ trực tiếp, và để giải quyết vấn đề người ta nghĩ ra khái niệm dân chủ đại diện. Kết quả là các tác động của các cá nhân đối với quá trình quản lý bị giảm đi, và Ban giám đốc sẽ được độc lập hơn trong việc ra quyết định, như theo Luật HTX năm 1973, thì Ban giám đốc HTX sẽ phải tự chịu trách nhiệm trong quản lý hoạt động của HTX. Tuy vậy, các quyết định quản lý quan trọng (như thay đổi mục tiêu của HTX, gọi thêm vốn góp, thanh lý hay hợp nhất HTX với HTX khác) vẫn phải được đa số hợp lệ thông qua tại Đại hội thành viên. Đại hội thành viên vẫn là bộ phận điều khiển và đưa ra quyết định tối cao trong số ba bộ máy của HTX (đại hội thành viên, ban giám đốc, ban kiểm soát), quyết định theo nguyên tắc “một người một lá phiếu “, nguyên tắc này cũng được áp dụng cho đại hội thành viên đại diện. Trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc này, các HTX cơ sở cũng có thể thiết lập một giới hạn quyền bầu cử phiếu, không một thành viên nào được phép có ba lá phiếu trở lên. Giới hạn này không được áp dụng cho các doanh nghiệp HTX Trung Ương. Quyền bầu cử nhiều phiếu ở các HTX cơ sở được giới hạn ở một số loại quyết định và được một số điều khoản trong luật kiểm soát; trong thực tế, quyền bầu cử nhiều phiếu ít khi được thiết lập. Vào năm 1973, luật sửa đổi cho phép khả năng bầu cử bằng người đại diện. Tuy nhiên, người đại diện chỉ được bỏ phiếu hộ tối đa cho hai người. Vì thế người này chỉ có tối đa ba phiếu. Nhiều quy định như là quy định cho rằng các thành viên của ban giám đốc và ban kiểm soát - ngoại trừ những người đại diện của nhân viên - phải là thành viên của HTX hoặc là một HTX thành viên, rõ ràng chỉ ra rằng nguyên tắc tự quản lý là điển hình đối với các HTX. Điều này nhấn mạnh các giá trị cá nhân, điều này cũng được diễn tả trong các nguyên tắc đoàn kết và tự chịu trách nhiệm, khiến cho HTX khác với tất cả các loại hình doanh nghiệp khác. Đặc tính “cá nhân" của HTX cũng mở ra nhiều cơ hội phát triển tương lai.

C. Sự tự nhận thức của HTX

Nếu chúng ta xem lại những nhận xét ở phần mở đầu về lịch sử của chủ nghĩa HTX Đức và cố hiểu sự tự nhận thức HTX qua các giai đoạn, chúng ta sẽ đi đến một kết luận như mong muốn; những thay đổi cơ bản đã diễn ra trên thị trường và ở các doanh nghiệp thành viên. Ở những đoạn sau, chúng ta sẽ chỉ ra điều này, mặc dù có những thay đổi quyết định trên thị trường và trong các hoạt động thành viên, mục đích và cơ cấu cơ bản của HTX vẫn không thay đổi. Các thị trường dịch vụ, buôn bán, và tài chính mà ngày nay các HTX hoạt động trên đó không còn được so sánh với những thị trường tồn tại vào thời điểm các HTX đầu tiên mới được thành lập ở Đức. Sự phát triển kỹ thuật và tập trung hợp tác đã dẫn đến những thay đổi cơ bản đối với tình hình cạnh tranh ở những thị trường này. Các HTX cũng có ảnh hưởng rộng lớn bằng cách tăng cường sức cạnh tranh. Đề cập đến chính sách cạnh tranh, các HTX có chức năng kép. Chức năng thứ nhất, các HTX có thể tạo lập và duy trì cạnh tranh hiệu quả và chức năng thứ hai (chủ yếu trong lịch sử phát triển) là họ tăng cường sức cạnh tranh bằng cách tạo ra sức mạnh thị trường bù đắp. Lý thuyết cổ điển về cạnh tranh và lý thuyết về các kiểu thị trường sẽ giúp chúng ta hiểu khía cạnh đầu tiên - khía cạnh về cạnh tranh hiệu quả. Lý thuyết cổ truyền nghiên cứu mối quan hệ cạnh tranh giữa những người tham gia cùng một phía của thị trường. Các HTX đóng một vai trò đặc biệt trong mối liên kết này, bởi vì với nhiều thành viên họ chỉ đưa ra các điều kiện cần cho sự xuất hiện các định chế mang tính cạnh tranh. VD (HTX tín dụng- người cho vay nặng lãi ; HTX mua bán- người mua bán lẻ) Mục đích của bất kỳ hoạt động kinh tế nào cũng là thoản mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng. Khái niệm mang tính chính trị của nền kinh tế thị trường có điều tiết xã hội dựa trên giả định rằng để đạt được mục đích tốt nhất thì phải qua cạnh tranh. Trong bối cảnh này, lý thuyết quy ước như chúng ta đã nêu, tập trung sức cạnh tranh giữa các lực lượng thị trường ở cùng một phía của thị trường - hoặc là phía cung hoặc là phía cầu. Tuy nhiên, các điều kiện cấu trúc trên nhiều thị trường đã không ngừng bị ảnh hưởng bởi hiện tượng khác, hiện tượng mà lý thuyết cạnh tranh cổ điển không nhận ra được. Chúng ta đang đề cập đến tầm quan trọng ngày càng tăng của các điều kiện thị trường; các đơn vị được tập trung cao và mạnh hoạt động trên thị trường như là người cung cấp hoặc người bán. Trong khía cạnh phát triển và mở rộng lý thuyết truyền thống, John Kenneth Galbrath là người đầu tiên chỉ ra rằng việc trung thành với các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường tự do và biện pháp ngăn chặn sức mạnh cá nhân cũng có thể xảy ra ở những nơi mà sức cạnh tranh trong chiều hướng thông thường bị yếu. Kết luận ông rút ra từ việc tập trung ngày càng tăng trên nhiều thị trường là sự thăng bằng của thị trường không phụ thuộc quá nhiều vào mối quan hệ giữa những người tham gia ở cùng một phía của thị trường mà phụ thuộc nhiều hơn vào sức mạnh tương đối của hai phía thị trường. Theo ông Galbath, sự thăng bằng thị trường sẽ đạt được khi mà 2 phía của thị trường đạt đến sự cân bằng về sức mạnh; vì thế, sức mạnh đầu tiên của một phía có thể được cân bằng bằng một sức mạnh bù đắp của phía khác trên thị trường. Ông nhận thấy rằng điều này sẽ dẫn đến sức cạnh tranh tăng lên. Các HTX cũng thành công trong khía cạnh này; Chẳng hạn như vào thế kỷ 19, họ có thể phản đối cơ cấu cung cấp độc quyền trên thị trường phân bón bằng cách kéo nhu cầu theo hình thức các HTX thu mua địa phương và các doanh nghiệp HTX Trung Ương. Ngày nay, vẫn có những thị trường phụ ở khu vực hoặc địa phương trong ngành nông nghiệp mà ở đó sức cạnh tranh được tăng cường bằng cách tạo ra một lực lượng thị trường bù đắp. Như là một nhân tố đóng góp vào sự cạnh tranh có hiệu quả và tăng cường và duy trì sức cạnh tranh, các HTX hiện đại thực hiện các chức năng chủ chốt trong lĩnh vực cạnh tranh. Các hoạt động của các HTX cũng dẫn đến một sự thay đổi trong các điều kiện thị trường của các thành viên. Việc thực hiện thành công yêu cầu phát triển, dựa trên thành công trên thị trường, cũng thay đổi hình tượng bên ngoài của các HTX: “Tuy nhiên việc tăng hiệu quả kinh tế, việc sử dụng phần lớn những biện pháp và phương tiện hiện đại dẫn đến một hình tượng mà mới nhìn thì dường như khác hình tượng của những đối thủ cạnh tranh ở cùng một ngành và cùng một quy mô.”

Lý do thay đổi quan điểm của các thành viên trong HTX được nhìn thấy ở các hoạt động kinh tế tăng lên một cách hợp lý. Sự hợp lý này một mặt là sự tiếp cận được với các thành viên và mặt khác là nền tảng cho sự hợp tác trong các HTX. Hơn nữa nó còn phản ánh sự hợp tác trong HTX trong bối cảnh của một hệ thống hợp nhất. Trong hệ thống này - như là liên minh của các chủ thể tự trị về kinh tế và độc lập về luật pháp, những chủ thể được nối kết với nhau qua sự ràng buộc về mặt cá nhân, tài chính và chức năng trên nền tảng tự nguyện lâu dài và có hệ thống - các HTX thành viên đã lấy ra được một phần sức mạnh từ các doanh nghiệp cấp Trung Ương, và điều này thúc đẩy sự cạnh tranh của các HTX cơ sở đồng thời cho phép họ giữ lại cấu trúc tự trị và địa phương của họ. Trong hệ thống ràng buộc ba yếu tố này, điều tương tự cũng áp dụng cho các tổ chức có hoạt động trên toàn lãnh thổ quốc gia quan hệ với các thành viên khu vực của họ. Tuy nhiên, hệ thống hội nhập này không phải đường một chiều; thái độ hợp tác của các HTX đối với các tổ chức Trung Ương của hệ thống cũng quan trọng như là sự hợp tác của các thành viên cá nhân với từng HTX của họ.

Mặc dù có những thay đổi quan trọng trong môi trường HTX, cũng như là những thay đổi trong các thành viên và trong chính bản thân các HTX, các HTX này vẫn duy trì các doanh nghiệp có đặc tính độc đáo. Yêu cầu phát triển, nguyên tắc thống nhất và nguyên tắc thủ tục dân chủ sẽ tiếp tục quyết định các mục tiêu quan trọng của hoạt động HTX trong những năm tới.

D. Hình ảnh các HTX

Sự tự nhận thức của một doanh nghiệp không nhất thiết phải đồng nhất với hình ảnh của cộng đồng đối với doanh nghiệp. Đặc biệt đối với các HTX, nó dường như cho thấy rằng, hình ảnh của họ vẫn tiếp tục bị quyết định bởi nguồn gốc của họ sau khi lịch sử của HTX được phát triển cách xa những nguồn gốc này. Như chúng ta đã đề cập, hiệu quả tăng cường cạnh tranh mà các HTX tạo ra cho các thành viên của họ giúp đỡ những thành viên này trở thành tầng lớp dân cư và doanh nghiệp trung lưu và tự tin; hình ảnh về thành viên HTX như là “nhóm người nghèo” vì thế từ lâu đã không còn đúng nữa. Và bản thân các HTX đã có thể phá vỡ hình ảnh về họ như là những doanh nghiệp đặc biệt chỉ chú trọng đến lý tưởng mà không tính đến các yếu tố thương mại và quản lý. Mặc dù hiển nhiên là tất cả các HTX ở các cấp độ hoạt động đều là những tổ chức tương hỗ trên cơ sở dân chủ và có chức năng phục vụ, thì các chức năng của họ liên quan đến sự cạnh tranh và nền kinh tế nói chung cũng như sức nặng mà họ đem lại cho thị trường đã được phần lớn cộng đồng thừa nhận và đánh giá chính xác.

Thông tin thống kê về mức độ quan trọng và sức mạnh kinh tế hiện nay ở CHLB Đức được trình bày trước đây có thể được bổ sung một con số nữa, con số này cho thấy tính hấp dẫn của HTX về tình trạng pháp lý. ở Tây Đức, số lượng thành viên các HTX là 15,6 triệu người vào cuối năm 1991, so với 11,3 triệu người vào cuối năm 1966, 25 năm trước. Trong khoảng thời gian này, 4,3 triệu thành viên mới gia nhập các HTX, chủ yếu là các NH HTX - bằng chứng về hình ảnh tích cực mà các HTX có trong mắt của những người quyết định gia nhập các HTX trong những năm này. Khi mà con số các HTX giảm từ 23.294 xuống 8.378 trong cùng kỳ, thì số lượng thành viên trung bình mỗi HTX tăng lên - điều này thể hiện tầm quan trọng ngày càng tăng của mỗi HTX riêng lẻ trên thị trường.

Biểu tượng chung của Volk và Raiff, chữ V kết hợp với dấu gạch chéo, rất nổi tiếng; tương tự là khẩu hiệu của các NH HTX “Chúng tôi mở đường cho các bạn”. Danh tiếng lẫy lừng của các NH HTX trên thị trường tài chính được phản ánh qua bản báo cáo chi tiết hàng năm trong kỳ xuất bản chính thức của các NH tiết kiệm (Sparkasen), các đối thủ cạnh tranh chính của họ; phân tích theo dạng này gần đây nhất nhấn mạnh chiều hướng kinh doanh tích cực trong hệ thống NH HTX. Hơn nữa, việc nâng cao vị trí thị trường của các NH HTX đang diễn ra được đề cập ở tất cả 5 bản báo cáo phát triển về khu vực tư nhân của hệ thống NH Đức, các bản báo cáo này đã được Deutsche Bundesbank (NH dự trữ liên bang Đức ) xuất bản. “Trong những vấn đề liên quan, ngành HTX... đã đạt được tiến bộ nhất....” bản báo cáo đã viết , và trong một cuộc điều tra gần đây nhất, NH Budes nhấn mạnh; “các tổ chức HTX, ngành lớn duy nhất có thể nâng cao đáng kể vị trí thị trường trong những năm 70, một lần nữa chúng ta ghi nhận bước phát triển cao nhất trong những năm 1978 và 1988...”

Tóm lại, hình ảnh các HTX phát triển tích cực qua các giai đoạn.

Khoa học xã hội luôn gắn cho HTX tầm quan trọng đặc biệt. Chúng tôi luôn tham chiếu đến tác phẩm chính của Otto Von Gierre ở các hoàn cảnh khác nhau. Chúng ta có thể trích dẫn một câu nói của một trong những nhà kinh tế chính trị của Đức trước đây, ông Werrner Sombart ;” Tại sao mà HTX lại có tầm quan trọng to lớn như vậy ?... Chúng ta giải thích như thế nào về sự phát triển nhanh chóng và không ngừng của các HTX ở các nước văn minh? Khía cạnh nào hấp dẫn ý tưởng hợp tác? Điều gì khiến cho nó trở nên thành công như vậy? “ Câu trả lời của ông được tham khảo từ lực lượng xây dựng HTX và nhiều cách khác nhau trong đó các HTX có ảnh hưởng: “Lý do là đa dạng hoá các hoạt động, khả năng đáp ứng tất cả các điều kiện, nhiều mục đích và nhiều ý kiến sáng tạo mà nó đem lại.” Từ lĩnh vực khoa học HTX trong bối cảnh gần hơn chúng ta trích dẫn lời ông Gerhard Albrecht; Việc thành lập các HTX “đạt được sự chấp nhận và chứng minh giá trị của nó như là một phương tiện phục vụ các hoạt động cá nhân hiện nay, nghĩa là một mặt là các hộ gia đình và mặt khác là các doanh nghiệp kinh doanh; nó đã chứng minh được giá trị của mình như là một phương tiện đạt được mục đích duy trì độc lập kinh tế, tự do hoạt động kinh tế, tự do đưa ra quyết định và sáng kiến cá nhân trong các khu vực rộng lớn của xã hội kinh tế hiện đại trong khả năng của khách hàng và nhà cung cấp. “Trích dẫn lời phát biểu của ông Erick Boetcher trong bài văn gần đây nhất: các HTX đại diện cho “một nhân tố trung tâm của nền kinh tế dân chủ; tầm quan trọng chính trị xã hội của HTX trong nền kinh tế thị trường tự do với hệ thống chính trị dân chủ, vì thế không thể đánh giá được đầy đủ.... Hoạt động kinh tế toàn diện của các HTX, và lý do cho thành công của họ do thực tế là bằng cách đưa ra các phương pháp tổ chức thích hợp, họ giảm bớt các cơ cấu thị trường độc quyền ở một số khu vực kinh tế và xây dựng, tăng cường và duy trì các thị trường chức năng ở chỗ của họ. Đây là đóng góp chính của các HTX để phát triển nền kinh tế Đức.”

Như những lời trích dẫn đã nêu trên, khoa học xã hội gắn cho HTX tầm quan trọng rất lớn ngay từ lúc bắt đầu; đầu tiên vì tầm quan trọng kinh tế và thứ hai là các chức năng xã hội. Chúng ta không thể dự đoán được liệu sự phục hưng ý tưởng của “các HTX thay thế“ có dẫn đến việc thành lập các doanh nghiệp hiệu quả và mạnh về tài chính để tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên hay không. Tuy nhiên, mục đích của chúng tôi là để nhấn mạnh rằng trong con mắt của những sáng lập viên, HTX có hình ảnh tích cực, nhiều người trong số họ có cách tiếp cận mang đậm lý tưởng và sẵn sàng cam kết cống hiến.

Hiện tại và trước mắt, điều quan trọng là các HTX đóng vai trò thúc đẩy trong việc tái thiết lập và tăng cường tính độc lập của công việc kinh doanh vừa và nhỏ ở Đông Đức (cũng bằng cách hỗ trợ thành lập các doanh nghiệp mới ) – một nhiệm vụ mà họ đã thực hiện thành công ở Tây Đức kể từ chiến tranh thế giới lần II.

Một sự chỉ dẫn cuối cùng của hình ảnh tích cực trong cộng đồng mà các HTX nói chung và các HTX Đức nói riêng có được là họ được coi là công cụ thiết yếu trong nỗ lực hướng tới thúc đẩy kinh tế ở các nước đang phát triển. Mặc dù không thể phủ nhận rằng việc thành lập và phát triển của hệ thống HTX ở những nước này còn có một số tồn tại mà hầu hết bắt nguồn từ những mong đợi quá mức và cố gắng chuyển giao trực tiếp những kinh nghiệm Châu Âu sang những nước này, tuy nhiên thực tế là hầu như tất cả những nước đang phát triển bị ấn tượng bởi sự phát triển hiệu quả và sự hỗ trợ do các HTX Đức cung cấp cho các thành viên và - do điều kiện xã hội, luật pháp kinh tế ở từng nước – họ rất háo hức xây dựng các kiểu HTX hoạt động để thúc đẩy nền kinh tế của họ phát triển.

Gần đây, chúng ta cũng thấy được những nỗ lực ở nhiều nước Đông Âu trong việc tận dụng mô hình HTX để cải tổ lại nền kinh tế đất nước họ. Đặc biệt được áp dụng cải tổ ở một số nước như Ba Lan, Hungary, cộng hoà Czech và Slovakia, cũng như là các nước cộng hoà Baltic và các nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ. Qua đó, phong trào HTX Đức, bắt đầu bằng việc xây dựng những NH HTX địa phương đầu tiên trên thế giới, các NH HTX kinh doanh hàng hoá và các HTX thu mua các sản phẩm phi nông nghiệp, ngày nay được coi như là một điển hình ở nhiều khu vực trên thế giới.

 

Nguồn: Văn phòng Hiệp hội

Các tin liên quan