Mặc dù vậy, có ý kiến cho rằng, trong quý 1 và quý 2/2010, tăng trưởng tín dụng khá “chậm”. Quan điểm của Thống đốc như thế nào về vấn đề này?
Tính đến hết ngày 31/7, tổng phương tiện thanh toán tăng 12,96%; huy động vốn tăng 16,3%; dư nợ tín dụng tăng 12,97% so với cuối năm ngoái. So với mục tiêu cả năm là tổng phương tiện thanh toán tăng 20% và tăng trưởng tín dụng ở mức 25% thì không hề chậm.
Mặt khác, nếu so sánh với các chỉ tiêu này năm 2009 thì cũng chưa chuẩn xác vì năm 2009 là năm mà các ngân hàng đẩy mạnh cho vay theo chương trình kích cầu hỗ trợ lãi suất của Chính phủ.
Tỷ giá trên thị trường vừa có những biến động tuy không lớn nhưng cũng khiến nhiều doanh nghiệp lo ngại. Ông nhận định như thế nào?
Các chỉ số kinh tế vĩ mô của Việt Nam hiện vẫn lành mạnh. Dù chúng ta vẫn đang nhập siêu nhưng thâm hụt thương mại đang được kiểm soát chặt chẽ. Ngoài ra, các yếu tố bù đắp cho cán cân thương mại cũng khả quan.
Cụ thể, dù số vốn đăng ký không tăng nhưng thực tế giải ngân FDI lại đạt tới 6,4 tỷ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ. Kiều hối cũng tăng trưởng nhanh tới 24,6% trong 6 tháng đầu năm, đạt 3,9 tỷ USD. Thậm chí, nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cũng thặng dư gần 300 triệu USD. Với tình hình kinh tế vĩ mô khả quan như vậy tỷ giá sẽ ổn định.
Dù Chính phủ đã có chỉ đạo và Ngân hàng Nhà nước cũng rất tích cực nhưng doanh nghiệp phản ánh khó tiếp cận mức lãi suất ưu đãi 12-13%/năm. Theo ông, đâu là nguyên nhân?
Khi đã chuyển cách điều hành theo lãi suất cơ bản sang cơ chế lãi suất thỏa thuận thì lãi suất tăng hay giảm tùy thuộc vào quan hệ cung cầu và diễn biến của kinh tế vĩ mô. Thị trường sẽ phân thành 3 nhóm, lãi suất cực cao, cao trung bình và thấp nhất.
Đối với các khu vực, lĩnh vực được ưu đãi theo tinh thần của Nghị quyết 18, các ngân hàng đều cho vay với lãi suất thấp. Chẳng hạn với khu vực nông thôn, hiện BIDV cho vay thấp nhất 12%; Vietcombank 12,3%; còn Vietinbank và Agribank 12,5%. Hay như đối với lĩnh vực xuất khẩu, Vietinbank cũng chỉ cho vay với lãi suất 11%/năm đối với VND và 4%/năm đối với USD.
Còn đối với các khoản vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng xa xỉ hay cho các hoạt động có lợi nhuận cao, đi kèm với nó là rủi ro lớn, thì lãi suất phải cao. Tôi đang yêu cầu thống kê cụ thể xem nhóm này chiếm bao nhiêu trong cơ cấu tín dụng của toàn hệ thống, từ đó sẽ kết luận tỷ lệ hưởng lãi suất thấp là nhiều hay ít.
Vậy định hướng điều hành của Ngân hàng Nhà nước những tháng cuối năm như thế nào, thưa Thống đốc?
Các giải pháp điều hành sẽ tập trung sao cho đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 25%, góp phần tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% hoặc trên. Dĩ nhiên, sẽ có điều chỉnh hợp lý khi diễn biến bất thường. Điều đáng mừng là hệ thống ngân hàng lại quay về trạng thái tăng trưởng huy động vốn cao hơn cho vay. Cuối năm huy động vốn có thể giảm bớt do tính mùa vụ, nhưng điều đó cũng không đáng ngại bởi thực tế tiền gửi vào ngân hàng vẫn khá đều đặn và ngân hàng đang là kênh đầu tư hấp dẫn.
Ngân hàng Nhà nước sẽ có các biện pháp hỗ trợ ngân hàng cung ứng vốn cho nền kinh tế. Tới đây, Ngân hàng Nhà nước sẽ giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho những ngân hàng có dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn ở mức cao. Riêng với Agribank, sẽ tiếp tục hỗ trợ thêm vốn trung dài hạn, dự kiến khoảng 4.000 tỷ đồng.
Ước tính số vốn Ngân hàng Nhà nước cung ứng thông qua nghiệp vụ tái cấp vốn để các ngân hàng cho vay nông nghiệp, nông thôn sẽ vào khoảng 30.000 tỷ đồng, trong đó khoảng 10.000 tỷ đồng dành cho trung dài hạn. Như vậy, có thể yên tâm dư nợ tín dụng sẽ tăng trưởng tốt.