23.05.2007 00:00

Sửa đổi Quyết định 493/QĐ-NHNN: Tăng độ an toàn cho hoạt động ngân hàng

Sau 2 năm ban hành Quy chế về việc phân loại nợ, trích lập dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng (Quyết định 493), vừa qua NHNN đã sửa đổi, bổ sung một số điều trong quy chế này  bằng  Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN (Quyết định 18). Cụ thể, rõ ràng và phù hợp với điều kiện thực tế của các TCTD là những tiêu chí mà NHNN hướng đến khi soạn thảo và ban hành Quyết định 18.

Quản lý rủi ro chặt chẽ hơn đối với các cam kết ngoại bảng

Theo Quyết định 18, các khoản bảo lãnh, chấp nhận thanh toán và cam kết cho vay không huỷ ngang vô điều kiện và có thời điểm thực hiện cụ thể (gọi chung là các cam kết ngoại bảng) phải được TCTD đánh giá, phân loại theo 5 nhóm thay vì chỉ phân vào nhóm 1 như Quyết định 493. Điều này có nghĩa, các cam kết ngoại bảng có mức độ rủi ro tín dụng tương đương với các khoản nợ nội bảng được phân loại chặt chẽ hơn, phản ánh chính xác hơn rủi ro tín dụng của TCTD.   

Quyết định 18 bổ sung thêm: Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày mà TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi bị quá hạn, gốc và lãi đúng thời hạn còn lại thì được phân loại vào nhóm 1. Việc bổ sung này giúp TCTD hạn chế việc buộc phân loại các khoản nợ quá hạn vài ngày vì lý do khách quan không xuất phát từ khả năng không trả nợ đúng hạn của khách hàng.

Đối với các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ (gồm nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ và nợ gia hạn thời hạn trả nợ), Quyết định 18 bổ sung tiêu chí số lần cơ cấu lại để phân loại nợ, nhằm hạn chế việc TCTD thực hiện cơ cấu nợ tràn lan, không đánh giá đúng khả năng trả nợ của khách hàng. Và TCTD sẽ không thể  sử dụng việc cơ cấu lại nợ để che dấu mức độ rủi ro thực tế của khoản nợ.

Nhìn chung, Quyết định 18 đã cụ thể và làm rõ hơn một số quy định của Quyết định 493. Nhưng với đặc thù là các quy định mang tính nguyên tắc, nên đòi hỏi khi triển khai thực hiện, TCTD cần căn cứ tình hình cụ thể thực tế và các quy định liên quan để đưa ra các hướng dẫn nội bộ chi tiết, phù hợp hơn với đặc thù hoạt động của mình,  đảm bảo việc quản lý rủi ro tín dụng được thực hiện tốt.

Tăng độ an toàn cho hoạt động ngân hàng

Mặc dù, số tiền dự phòng cụ thể phải trích vẫn được tính dựa trên các yếu tố là tỷ lệ trích lập dự phòng (r), giá trị khấu trừ của tài sản đảm bảo (C) và số dư nợ gốc của khoản nợ (A) nhưng Quyết  định 18 đưa ra các điều kiện đối với tài sản  bảo đảm được khấu trừ khi tính số tiền dự phòng cụ thể phải trích, cụ thể: TCTD có quyền phát mại tài sản bảo đảm theo hợp đồng khi khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ đã cam kết; thời gian phát mại tài sản theo dự kiến của TCTD là không quá 1 năm đối với tài sản bảo đảm không phải là bất động sản và không quá 2 năm với tài sản là bất động sản. Trường hợp TCTD dự kiến việc phát mại tài sản bảo đảm quá  thời hạn này hoặc không thể phát mại được thì (C) của khoản vay này là bằng không. Việc bổ sung này sẽ hạn chế tình trạng TCTD quá trông chờ vào tài sản bảo đảm, ngay cả tài sản bảo đảm không có khả năng chuyển đổi  thành nguồn trả nợ thứ cấp khi quyết định cho khách hàng vay. Đồng thời, yêu cầu TCTD phải tự nâng cao năng lực quản lý tài sản bảo đảm để đảm bảo trích lập dự phòng rủi ro phù hợp với môi trường kinh doanh thực tế.

Ngoài ra, Quyết định 18 điều chỉnh tỷ lệ khấu trừ tối đa đối với các tài sản đảm bảo là chứng khoán, công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá. Theo đó, tỷ lệ khấu trừ tối đa đối với các tài sản bảo đảm này là 70% - nếu do các TCTD khác phát hành, được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán và trung tâm giao dịch chứng khoán, là 65% - nếu do doanh nghiệp phát hành, được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm giao dịch chứng và là 50% - nếu do các TCTD khác phát hành, chưa được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm giao dịch chứng khoán. Việc điều chỉnh này sẽ phù hợp hơn đối với thị trường chứng khoán Việt Nam  trong giai đoạn hiện nay, khi mà nhiều lúc giá thị trường của tài sản bảo đảm này biến động nhiều và không phải lúc nào cũng phản ánh được  giá trị thực của tài sản. Cũng như Quyết định 493, Quyết định 18 không đưa ra một tỷ lệ khấu trừ cố định mà là tỷ lệ khấu trừ tối đa. Điều này cho phép TCTD tuỳ theo đánh giá về cổ phiếu của mình để đưa ra tỷ lệ khấu trừ phù hợp.
Theo Thời báo Ngân hàng

Các tin liên quan