Khi đi công tác các nơi Bác bảo chúng tôi chuẩn bị sẵn thức ăn từ nhà mang đi hoặc mang nồi đi tự nấu lấy để tiết kiệm, tránh các nơi khi đón Bác thường tổ chức ăn uống linh đình.
Ðầu năm 1950, tôi vinh dự được phục vụ Bác Hồ tại chiến khu Việt Bắc. Hồi này Bác đang ở Khấu Lấu. Khi tôi đến anh Nguyễn Văn Dụng ra đón, đưa vào giới thiệu với Bác. Bác bắt tay thân mật và hỏi:
- Quê chú ở đâu?
- Thưa Bác, quê cháu ở Nghi Lộc ạ.
Nghe tôi trả lời, Bác đùa lại:
- Có phải Nghi Lộc cà có cuống, cà có đuôi không? Rồi Bác cười hiền lành bảo tôi:
- Chú vào cất ba-lô, nghỉ ngơi mai Bác giao công việc.
Lần đầu tiên được gặp Bác tôi cũng run. Song cái bắt tay thân mật và sự ân cần của Bác đã giúp tôi trấn tĩnh lại. Sự thay đổi trong công việc đem đến hạnh phúc lớn trong đời tôi. Tôi được đi theo Bác và phục vụ Bác Hồ từ năm đó.
Ở chiến khu, để bảo đảm bí mật và do yêu cầu của công tác kháng chiến Bác phải thay đổi chỗ ở luôn. Do đó phải làm nhà liên tục, tôi vốn là thợ mộc nên thời gian đầu ở Việt Bắc tôi được giao nhiệm vụ làm nhà cho Bác mỗi khi di chuyển đến chỗ ở mới.
Tháng 3 năm 1950, tôi được giao nhiệm vụ đi làm nhà cho Bác. Thường thì anh Kháng, anh Dụng tìm địa điểm, còn tôi và hai anh nữa đi làm nhà. Trước đây khi chưa có người biết làm nhà, các đồng chí phục vụ Bác chỉ dựng tạm tre nứa như một túp lều để ở. Sau này chúng tôi làm nhà cho Bác theo kiểu nhà sàn ở miền núi, không to nhưng phù hợp và vệ sinh tiện lợi. Nhà làm đơn sơ có hai buồng, một buồng để Bác làm việc và tiếp khách, còn một buồng để Bác nghỉ ngơi.
Những năm tháng kháng chiến, số người phục vụ, giúp việc Bác không nhiều, do đó ngoài việc dựng lán, làm nhà cho Bác tôi cũng như các anh em khác kiêm nhiệm nhiều việc. Khi di chuyển chỗ ở thì lo tìm địa điểm, lo làm nhà, buổi tối thì đi gác cùng anh em bảo vệ.
Thời gian ở Việt Bắc tôi đã làm nhà cho Bác ở các nơi sau: Tháng 5, tháng 6 năm 1951 làm nhà ở bản Vèn. Ðầu năm 1952 làm nhà ở Ðầm Hồng, Chiêm Hóa, Bản Thí, Tuyên Quang. Giữa năm 1952 làm nhà ở Ðèo Dát. Ðầu năm 1953 về Hồng Thái, làm nhà ở Hang Bòng. Sau đó đi Khuôn Mã. Một thời gian ở Vai Cày, Thái Nguyên. Dù là lán hay nhà chúng tôi đều làm đẹp, cẩn thận, do đó Bác rất ưng ý. Chúng tôi rất vui vì đã góp một phần nhỏ bé vào việc giúp cho Bác tạm an cư để lo sự nghiệp lớn của đất nước.
Kháng chiến chín năm thắng lợi, Bác từ chiến khu cách mạng về Hà Nội. Tôi cũng được theo Bác trở về. Trên đường về, Bác dừng lại ở Sơn Tây (thôn Phù Xa, xã Viên Sơn, thị xã Sơn Tây), sau về nhà thương Ðồn Thủy, rồi mới về Phủ Chủ tịch.
Về thủ đô Hà Nội, không phải lo làm nhà cho Bác nữa, tôi được giao nhiệm vụ phục vụ Bác. Nhiệm vụ của tôi là chăm lo việc ăn ngủ, tắm giặt, sinh hoạt... của Bác. Tuy Bác ăn uống đơn giản, sống tiết kiệm, giản dị song tôi luôn cố gắng làm thật tốt nhiệm vụ của mình, không để xảy ra sơ suất gì. Tôi luôn tâm niệm một điều: Sức khỏe của Bác là tài sản của dân tộc. Gánh nặng của công việc kháng chiến, xây dựng và bảo vệ đất nước còn đè nặng lên vai Người. Bác có khỏe mới có sức làm việc, có đủ minh mẫn và sáng suốt để giải quyết công việc trong lúc vận nước có lúc như ngàn cân treo sợi tóc.
Một ngày Bác ăn ba bữa chính, ba bữa phụ rất đơn giản. Mỗi bữa phụ của Bác chỉ là một cốc sữa.
Bữa ăn chính của Bác cũng giản dị, mỗi bữa thường có mấy miếng thịt, hoặc khúc cá và một bát canh rau. Bữa nào có thịt bò thì anh Cẩn thường làm bít tết cho Bác ăn.
Anh Cẩn làm nhiệm vụ nấu ăn, còn tôi sắp xếp mời Bác lên ăn. Bác ăn rất tiết kiệm. Một khúc cá liệu ăn một bữa không hết, Bác lấy dao xắt đôi, để lại một nửa cho bữa sau. Bác ăn ít nhưng điều độ. Thường thì hằng ngày Bác đi bộ sang nhà ăn để ăn cơm. Những hôm mưa to đường ngập nước Bác cũng xắn quần lội từ nhà sàn sang nhà ăn... Khi đi công tác các nơi Bác bảo chúng tôi chuẩn bị sẵn thức ăn từ nhà mang đi hoặc mang nồi đi tự nấu lấy để tiết kiệm, tránh các nơi khi đón Bác thường tổ chức ăn uống linh đình. Bác đã có lần nói đùa:
- Bác không ăn, vì không khéo dân lại nói rằng ông Chủ tịch nước về thăm làm thịt mất một con bò.
Bác mặc rất giản dị, tiết kiệm. Quần áo Bác mặc chỉ có vài bộ, may cùng kiểu. Sau khi may xong mang đi xí nghiệp Tô Châu nhuộm gụ hết. Khi Bác mặc, bộ nào hơi cũ chúng tôi thay bộ mới vào. Vì áo quần may cùng một kiểu, vải giống nhau nên lúc đầu Bác không nhận ra. Sau thấy quần áo mặc nhiều mà vẫn mới Bác sinh nghi. Bác bèn đánh dấu và phát hiện ra quần áo đã bị đổi, Bác phê bình và không đồng ý cho thay. Thế nên có cái áo của Bác rách vá đi vá lại, thay cổ mà Bác vẫn không cho đổi. Khổ người của tôi cao giống Bác, tôi thường đo theo người tôi về là Bác mặc vừa. Các đồ dùng khác của Bác thường là tôi đi mua.
Về chuyện quần áo của Bác về sau chúng tôi được nghe kể lại là Bác nói với một đồng chí lãnh đạo cao cấp của Ðảng một cách chân tình: "Này chú! Chủ tịch Ðảng, Chủ tịch nước mặc áo vá vai thế này là cái phúc của dân đấy. Ðừng bỏ cái phúc ấy đi".
Việc sinh hoạt hằng ngày của Bác cũng rất nền nếp. Buổi sáng Bác dậy sớm, tập thể dục, đi những bài quyền đẹp mắt. Sau đó ăn sáng rồi Bác làm việc luôn. Bác làm việc đúng giờ, nên chúng tôi phục vụ cũng phải rất đúng giờ.
Buổi tối, anh Chước vào đọc báo, bản tin cho Bác nghe, thường 11 giờ Bác mới đi ngủ.
Buổi chiều Bác thường đi bách bộ trong vườn. Bác rất ít uống thuốc và rất ghét uống thuốc. Những hôm mệt Bác cố gắng luyện tập để át bệnh đi.
Dịp sinh nhật Bác, ngày Tết, Bác thường đi thăm các nơi. Bác tránh những ngày này sợ các nơi đến chúc tụng.
Khi tôi phục vụ Bác, Bác giao cho tôi quản lý tất cả các đồ dùng của Bác và quà Bác được tặng. Số quà được tặng Bác thường dùng để tặng các cụ già, gia đình bộ đội, các anh hùng, chiến sĩ thi đua và cháu ngoan Bác Hồ.
Mỗi buổi chiều, khi thấy chúng tôi tăng gia ở vườn, Bác thường ra xem. Có lần Bác cùng cuốc đất, trồng cây với chúng tôi. Khu vườn quanh nhà Bác ở chúng tôi trồng rau. Bác nói :
- Các chú trồng rau thì phải chăm cho tốt, kẻo khách của Bác qua lại đây cười cho đấy.
Hằng ngày, sau giờ làm việc để thư giãn Bác ra cầu ao ngồi cho cá ăn. Xuất bánh mì của Bác, Bác thường bớt lại mang cho cá ăn. Sau thấy thế chúng tôi chế biến một loại thức ăn cho cá để sẵn đó, mỗi buổi chiều Bác lấy một ít rắc xuống ao cho cá ăn. Ðã thành thói quen, cứ đúng giờ nghe tiếng vỗ tay gọi đàn cá lại ngoi lên đớp mồi, trông thật vui mắt.
Ðối với anh em phục vụ, Bác rất quan tâm. Mỗi lần chúng tôi về thăm nhà lên, Bác thường hỏi thăm tình hình gia đình, vợ con sống thế nào. Chúng tôi vào phục vụ Bác liên tục không mấy khi được nghỉ. Do đó, mỗi khi Bác đi công tác xa, ngoài số anh em phải đi theo, Bác gọi số anh em còn lại đến dặn:
- Các chú tranh thủ về thăm nhà, nhưng nhớ đúng hẹn lên đón Bác.
Ðối với chúng tôi Bác còn dạy phải luôn luôn giữ bí mật. Bí mật là một nguyên tắc trong hoạt động cách mạng. Chúng tôi đã làm theo đúng lời Bác dặn. Mỗi lần họp Bộ Chính trị, tôi có nhiệm vụ mang nước lên. Tôi nghe được các đồng chí trong Bộ Chính trị bàn công tác. Nhất là trong những ngày chuẩn bị cho các chiến dịch lớn ở Nam Bộ. Tôi thấy các đồng chí trải bản đồ ra, chỉ đánh ở đâu, ở đâu... tôi nghe, biết nhưng không bao giờ nói chuyện với ai.
Cuộc đời của Bác là tấm gương sáng về đạo đức cần, kiệm, liêm, chính. Bác luôn dạy chúng tôi sống giản dị, tiết kiệm. Giản dị, tiết kiệm ngay cả ăn, mặc và sinh hoạt. Thấm nhuần lời dạy của Bác, chúng tôi luôn có phương châm: sống giản dị, tiết kiệm. Sau này khi có điều kiện may được chiếc áo trắng lúc mặc tôi cũng thấy ngường ngượng, khó quen.
Sau thời gian Bác mất, các anh bên điện ảnh có ý mời tôi đóng một vài phim về Bác. Song tôi nghĩ mình không thể hoàn thành được nhiệm vụ này nên từ chối. Khi còn sống tôi được phục vụ bên Bác. Bác coi tôi như con. Nay Người mất đi tôi rất buồn. Tôi không thể đóng vai Bác được, dù tôi biết đó chỉ là phim.
Trong thời gian phục vụ Bác, chúng tôi đã học tập được ở Bác rất nhiều, đặc biệt học được ở Bác đức tính cần, kiệm, liêm, chính. Cuộc đời của Bác trong suốt như pha-lê. Chúng tôi tự soi mình vào cuộc đời Bác và nguyện sống theo gương Người.