Bài viết này tập trung làm rõ bản chất của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, những tác động của chúng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát, qua đó làm rõ mối quan hệ tương tác giữa hai chính sách này hướng tới sự phát triển bền vững. Đưa ra những vấn đề cần thực hiện để đảm bảo tính tương tác hiệu quả giữa hai chính sách này. Đây là vấn đề cần được quan tâm trong quá trình điều hành CSTK và CSTT Việt Nam, theo đó việc điều hành hai chính sách này cần phải dựa trên cơ sở khoa học để lựa chọn chính sách nào là chủ đạo và xác định liều lượng tác động của từng công cụ trong từng thời kỳ; đảm bảo đầy đủ các nguyên tắc nhất quán, đồng bộ, hỗ trợ và chia sẻ thông tin trên cơ sở lựa chọn các kỹ thuật thực hiện đảm bảo tính khoa học và thực tiễn hướng tới hiệu quả cao nhất trong công tác phối hợp giữa hai chính sách với nhau, nhất là trong việc quản lý nợ công.
Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là các chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng của mỗi quốc gia. Trong đó, mặc dù mỗi một chính sách theo đuổi một mục tiêu cụ thể và tuân thủ những quy luật riêng nhưng đều hướng tới một mục đích chung là ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế. Đồng thời, giữa chúng lại có mối quan hệ tương tác lẫn nhau cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Chính sách tài khoá là hệ thống các chính sách của chính phủ về tài chính, được hoạch định và thực hiện trọn vẹn trong một niên khóa tài chính, nhằm tác động đến các định hướng phát triển nền kinh tế , thông qua những thay đổi trong các khoản chi tiêu và thu qua thuế, phí của nhà nước.Nó thể hiện các quan điểm, cơ chế và phương thức huy động các nguồn lực tài chính hình thành nên ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính có tính chất tập trung của nhà nước để thực hiện các khoản chi của ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ.
Chi tiêu tài khoá có tác động trực tiếp đến tổng cầu, và qua số nhân, có ảnh hưởng lớn hơn đến sản lượng, công ăn việc làm. Thuế làm thay đổi thu nhập khả dụng và tiêu dùng, và do vậy tác động đến giá cả sản lượng. Thuế còn hạn chế vai trò của số nhân trong lan truyền tác động của các thành tố tổng cầu. Sản lượng sẽ thay đổi ít hơn khi không có thuế thu nhập. Với nghĩa đó, thuế (như hàm số của thu nhập) có vai trò như một “van” ổn định tự động.
Tuy nhiên, việc vận dụng các công cụ chính sách tài khoá không đơn giản. Tác động của chi tiêu chính phủ còn phụ thuộc khả năng của tổng cung. Nếu tổng cung không đáp ứng việc tăng cầu qua chính sách bành trướng tài khoá có thể chủ yếu dẫn đến lạm phát tăng; điều này càng đúng khi các khoản thâm hụt ngân sách được bù đắp bằng việc phát hành tiền, thay vì bằng việc vay nợ nước ngoài và/hoặc vay trong nước qua phát hành trái phiếu.
Ngay khi cung có thể đáp ứng, thì tác động của thay đổi chi tiêu ngân sách còn phụ thuộc vào thị trường tài chính, tiền tệ. Tác động là mạnh nhất khi nền kinh tế trong trạng thái của ‘bẫy thanh khoản’ (“liquidity trap”), nghĩa là khi công chúng sẵn sàng cầm giữ bất cứ lượng tiền tệ cung ứng nào. Ngoài trường hợp đó, bành trướng tài khoá làm tăng lãi suất, giảm đầu tư tư nhân, hạn chế nhiều ý nghĩa của biện pháp bành trướng tài khoá, chưa nói tới việc có thể làm giảm mức cung xét về dài hạn hơn. Hiện tượng ‘thoái lui đầu tư’ tư nhân thường được xem là một lý do quan trọng cho việc tăng cường chi ngân sách cho kết cấu hạ tầng, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho khu vực tư nhân.
Hay giảm thuế cũng có thể chỉ được xem như một hành động tạm thời của Nhà nước; thâm hụt ngân sách hôm nay được bù đắp nhờ vay mượn (qua trái phiếu chẳng hạn) là dấu hiệu tăng thuế trả nợ trong tương lai. Vì vậy, giảm thuế chỉ chủ yếu làm công chúng tiết kiệm phần cắt giảm thuế, không hoặc rất ít có tác động lên thu nhập thường xuyên và tiêu dùng (giả thuyết Barro-Ricardo).
Chính sách tiền tệ thực chất là tổng thể các biện pháp, công cụ của NHTW chi phối, điều tiết quá trình cung ứng tiền, lãi suất và tín dụng, tức là thông qua chi phối dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiền góp phần đạt được các mục tiêu của quản lý kinh tế vĩ mô. Một CSTT nới lỏng sẽ làm tăng cung tiền, giảm lãi suất qua đo thúc đẩyđầu tư tăng tổng cầu và có thể làm gia tăng lạm phát tăng tiền quá lớn vượt mức sản lượng tiềm năng. Và ngược lại, một CSTT thắt chặt sẽ có tác động giảm tổng cầu, qua đó lạm phát sẽ được kiềm chế.
Chính sách tiền tệ tác động đến các biến mục tiêu vĩ mô qua việc thay đổi cung tiền và lãi suất. Cung tiền thường chỉ điều tiết một cách gián tiếp tổng cầu bằng cơ chế lan truyền nhờ sự thay đổi của lãi suất để cân bằng lại thị trường tiền tệ qua điều chỉnh việc lựa chọn các tài sản tài chính. Trong trạng thái “bẫy thanh khoản”, chính sách tiền tệ hầu như vô tác dụng đối với lãi suất và do vậy đối với cả sản lượng, thu nhập và công ăn việc làm. Cũng như đối với chính sách tài khoá, tác động của chính sách tiền tệ còn phụ thuộc vào khả năng ‘phản ứng’ của tổng cung và quan hệ giữa cung tiền tệ, lãi suất và lạm phát.
Với bản chất của hai chính sách như vậy, nên giữa chung có mối quan hệ tương tác lẫn nhau, cụ thể :
Trong ngắn hạn, CSTK có tác động qua lại, ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới các yếu tố thuộc cơ chế truyền dẫn CSTT. CSTK tác động trực tiếp và gián tiếp lên tổng cầu của nền kinh tế thông qua các quyết định thu chi hoặc thông qua sự tác động lên lãi suất[1]. Điều đó có xu hướng ảnh hưởng đến tiền lương và giá cả, qua đó tác động lên lạm phát và kỳ vọng lạm phát[2]. Về mặt lý thuyết thì thấy được những ảnh hưởng của CSTK lên các kênh truyền dẫn của chính sách tiền tệ, nhưng trên thực tế rất khó để cụ thể hóa (lượng hóa) rõ ràng ảnh hưởng của CSTK đến CSTT trong ngắn hạn.
Trong dài hạn, CSTK có thể ảnh hưởng đến sự ổn định lâu dài của CSTT và rất rõ nét, nếu một CSTK kém bền vững lâu dài sẽ tác động lên mục tiêu CSTT. Kỳ vọng thâm hụt ngân sách lớn và liên tục cộng với nhu cầu nợ lớn của Chính phủ có thể giảm lòng tin vào nền kinh tế và gây nên rủi ro đến sự ổn định của thị trường tài chính. Thiếu niềm tin vào sự bền vững tài chính của Chính phủ có thể trở thành yếu tố tiềm ẩn gây ra bất ổn cho các thị trường trái phiếu, ngoại hối và thậm chí làm sụp đổ cơ chế tiền tệ.
Ngoài ra, chính sách tài khóa còn có ảnh hưởng đến dòng chu chuyển vốn quốc tế, qua đó làm ảnh hưởng đến khả năng kiểm soát luồng ngoại tệ ra vào đất nước của NHTW, gây rủi ro cho hệ thống tài chính: Chính sách thu và chi tài khóa xây dựng không hợp lý có thể sẽ có tác động tiêu cực đối với quá trình phân bổ nguồn lực, điều này sẽ làm tăng rủi ro liên quan đến dòng vốn quốc tế.
Bên cạnh đó, CSTT cũng có ảnh hưởng nhất định đến CSTK: Chính sách tiền tệ với mục tiêu chính yếu mang tính trung hạn là ổn định giá cả, giá trị đồng tiền và hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế thông qua việc kiểm soát lãi suất và cung tiền. Một chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ làm giảm nhu cầu đầu tư, thu hẹp sản xuất có thể dẫn đến giảm nguồn thu của ngân sách Chính phủ; Một sự tăng/giảm lãi suất từ CSTT làm ảnh hưởng đến giá trái phiếu Chính phủ sẽ làm giảm/tăng giá trái phiếu, điều đó cũng ảnh hưởng đến cân đối ngân sách; Một sự gia tăng tỷ giá (đồng bản tệ giảm) sẽ làm gia tăng khoản nợ Chính phủ bằng đồng ngoại tệ qui đổi.
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng CSTT và CSTK có sự phụ thuộc lẫn nhau, thay đổi của một chính sách sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách kia. Hơn nữa, trong thực tế, hai chính sách này lại do 2 cơ quan khác nhau điều hành cho nên, vấn đề đặt ra đề đảm bảo sự tương tác hiệu quả giữa hai chính sách nay hướng tới sự phát triên bền vững của nền kinh tế thì cần có sự phối hợp trong điều hành CSTT và CSTK giữa NHTW và BTC.
Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, để đảm bảo sự tương tác hiệu quả giữa hai chính sách hướng tới sự phát triển bền vững của nền kinh tế, thì các nguyên tắc cơ bản về sự phối hợp giữa hai chính sách này trong quá trình thực thi cần được tuân thủ đảm bảo, cụ thể là 3 nguyên tắc cơ bản sau:
(i) - Cần có sự nhất quán về mục tiêu chính sách nhằm đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô là lạm phát ổn định, tăng trưởng bền vững và công ăn việc làm cao;
(ii)- Trong quá trình thực thi, cần tạo ra sự đồng bộ, bổ sung cho nhau.
(iii)- Hỗ trợ và chia sẻ thông tin, để đảm bảo thực hiện hiệu quả các quyết định chính sách nhằm đạt được mục tiêu đề ra của các chính sách, đảm bảo tính bền vững của các chính sách.
Ngoài ra, trong thực tế áp dụng, vấn đề luôn phải lưu ý, đó là Chính sách tài khoá thường thay đổi ngay tổng cầu và do đó có tác động đến thu nhập và sản lượng nhanh hơn chính sách tiền tệ (độ trễ bên ngoài ngắn hơn). Tuy nhiên, độ trễ bên trong của chính sách tài khoá lại thường kéo dài hơn so với chính sách tiền tệ. Thêm vào đó CSTK là chính sách cứng , bởi nó được thực hiện theo kế hoạch Quốc Hội phê chuẩn, còn chính sách tiền tệ là chính sách linh hoạt, uyển chuyển.Tận dụng tốt những đặc tính này có thể sẽ tạo ra được sự tương tác hiệu quả hơn. Thông thường các nước sẽ thực hiện đầy đủ các nguyên tắc cơ bản trên, tuy nhiên mỗi quốc gia có thể linh hoạt xác định cách thức thực hiện các nguyên tắc trên phù hợp với thực trạng của nền kinh tế.
Nhìn lại việc điều hành CSTK và CSTT của Việt Nam từ năm 2007-2017 có thể nhận thấy cả ba nguyên tắc trên được thể hiện khá đầy đủ trong thực tế. Trong đó, nổi bật là sự nhất quán rất cao về mặt mục tiêu thực hiện thông qua chỉ đạo của Chính phủ trong thời kỳ nền kinh tế phải đối mặt với nguy cơ khùng hoảng, cụ thể tại các Nghị Quyết 10/2008/NQ-CP ngày 17/4/2008 đưa ra 8 nhóm giải pháp đồng bộ để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững ; Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP về những giải pháp cấp bách ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 09/01/2009 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội và dự toán NSNN năm 2009; Nghị Quyết số 11/NQ-CP, ngày 24 tháng 2 năm 2011 về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, và gân đây nhất là Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2017 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2017 (Nghị quyết 01), chủ đề hành động của năm 2017 là: “Tăng cường kỷ cương, đề cao trách nhiệm, thi đua sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững”.
Theo các quyết định này, khi cần kiểm soát lạm phát thì CSTT và CSTK cũng thực hiện thắt chặt, khi chống suy giảm kinh tế CSTT và CSTK cùng thực hiện nới lỏng, song những gì diễn ra từ năm 2011 đến nay có thể thấy, những tác động trễ và cộng hưởng của 2 chính sách này cho thấy đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát thì ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế/ ngược lại đạt được mục tiêu chống suy giảm kinh tế (năm 2009) thì dẫn đến lạm phát. Vì vậy, để tránh những tác động bất lợi của “hậu” chính sách, thì cần thiết phải đề cao tính tương tác, bổ trợ cho nhau của cả hai chính sách khi theo đuổi mục tiêu chung là ổn định vĩ mô, tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát và công ăn việc làm cao thông qua việc lựa chọn các cách thức thực hiện sự phối hợp trên cơ sở các lý thuyết kinh tế cơ bản, phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế trong mỗi giai đoạn.
Vấn đề quan trọng để đảm bảo sự tương tác này, đó là :
- Việc quyết định lựa chọn CSTT hay CSTK là công cụ sẽ phát huy được tác động nhiều nhất đến tổng cầu/ hoặc liều lượng tác động của từng công cụ đến tổng cầu bao nhiêu là hợp lý trong từng tình hình kinh tế cụ thể cần dựa trên những luận cứ khoa học và thực tiễn.
Thực tế điều hành cho thấy, sự tương tác chỉ phát huy hiệu quả khi xác định hợp lý liều lượng trong cơ chế phối hợp. Tuy nhiên đây là mảng còn yếu trong công tác phối hợp chính sách tại Việt nam. Chẳng hạn như để không ảnh hưởng đến sự suy giảm tổng cầu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì CSTK cần có động thái mạnh trong việc giải ngân các công trình xây dựng cơ bản, đẩy nhanh tiến độ các khoản chi ngân sách trong kế hoạch. Trong 6 tháng đầu năm 2017 nếu nhìn vào tiền gửi Chính phủ tại NHNN tăng mạnh cho thấy mức độ chi tiêu của khu vực Chính phủ giảm, chủ yếu là không giải ngân các công trính xây dựng cơ bản trong khi đó CSTT rất nỗ lực trong việc giảm lãi suất, nới rộng các đối tương cho vay…, điều này có thể ảnh hường đến chất lượng tín dụng và nguy cơ tiềm ẩn lạm phát trong tương lai. Hơn nữa, độ trễ của CSTT tác động đến sản lượng là chậm hơn CSTK. Vì vậy có thể thấy sự vận dụng tính tương tác của hai chính sách này trong quá trình điều hành còn có những hạn chế nhất định, ở khía cạnh nào đó làm lãng phí nguồn vốn xã hội nói chung và ngân sách nhà nước nói riêng.
- Cơ chế trao đổi thông tin và hỗ trợ trong công tác điều hành CSTT và CSTK cần có sự phối hợp kịp thời và nhịp nhàng, khai thác triệt để những đặc tính riêng có của từng chính sách.
Chính sách tiền tệ với nội dung cơ bản là kiểm soát cung tiền và lãi suất của nền kinh tế, trong khi đó thu, chi Chính phủ có tác động trực tiếp đến cung tiền và lãi suất. Xem xét bảng cân đối tiền tệ toàn ngành (monetery survey), dễ dàng nhận thấy, các hoạt động thu, chi Chính phủ được phản ánh rõ qua các giao dịch trên tài khoản kho bạc mở tại NHTW hoặc mở tại ngân hàng thương mại. Tiền gửi của Chính phủ tại NHTW là cấu phần quan trọng trong tiền cơ bản (money base), do vậy cũng là cấu phần quan trọng làm thay đổi M2 trong nền kinh tế. Trong những thời kỳ nguồn thu và chi tiêu của Chính phủ diễn ra mạnh mẽ, việc chuyển tiền hai chiều trên tài khoản của Chính phủ tại NHTW có thể gây biến động tiền cơ bản của NHTW. Thực tế ở Việt Nam, cũng như nhiều nước đang phát triển khác, sự biến động của tiền gửi kho bạc có những lúc tăng cao đáng kể làm giảm mạnh vốn khả dụng của các NHTM, qua đó làm tăng lãi suất liên ngân hàng. Ngược lại, cũng có lúc làm tăng đáng kể vốn khả dụng và giảm lãi suất liên ngân hàng. Điều này gây áp lực nhất định cho kiểm soát cung tiền của NHTW trong thực thi CSTT. Đặc biệt ở những nước một phần tiền gửi kho bạc được gửi tại NHTM thì việc kiểm soát cung tiền và lãi suất của NHTW càng khó khăn hơn. Vì vậy, các khoản thu chi lớn của Chính phủ ảnh hưởng đến dòng tiền cần được thông báo trước với NHNN, để NHNN điều chỉnh dòng tiền phù hợp với mục tiêu điều hành.
- Công tác phối hợp trong việc tài trợ thâm hụt ngân sách, và quản lý nợ công là vô cùng quan trọng đảm bảo tính tương tác hiệu quả của cả hai chính sách. Một liều lượng hợp lý cho việc bù đắp thâm hụt ngân sách từ hệ thống ngân hàng (bao gồm từ NHTW- tiền phát hành, ngân hàng thương mại), từ vay nước ngoài sẽ hỗ trợ mang lại hiệu quả nhất định cho thực thi CSTK và chính sách tiền tệ.
Để đảm bảo sự phối hợp tốt trong việc tài trợ này, thông thường các nước hàng năm phải thiết lập chương trình tài chính quốc gia, chương này là một hệ thống các giải pháp vĩ mô đồng bộ, để thực hiện một kế hoạch định lượng về các chỉ tiêu vĩ mô. Trong đó, giữa CSTT và CSTT đã có sự phối hợp với nhau từ khâu lên kế hoạch đến khâu thực hiện, đưa ra mức bù đắp thâm hụt ngân sách hợp lý từ hệ thống ngân hàng.
Giữa NHNN và BTC, ngoài việc phối hợp trong việc xác định nguồn bù đắp bội chi ngân sách bao nhiêu từ hệ thống và bao nhiêu từ khu vực khác (trong nước và ngoài nước) thì cần thiết phải cần có sự phối hợp trong phát triển thị trường trái phiếu- cơ sở hạ tầng quan trọng cho việc quản lý nợ công, thị trường trái phiếu có phát triển thì tính thanh khoản của trái phiếu Chính phủ mới cao, qua đó mà thu hút được các nguồn vốn nhàn rỗi của các khu vực khác của nền kinh tế. Đồng thời, thị trường trái phiếu Chính phủ là nơi tạo ra mức lãi suất dài hạn chuẩn cho thị trường tài chính (vì mức lãi suất này không chứa đựng những yếu tố rủi ro). Trong thị trường này thì vai trò của NHTW rất quan trọng, NHTW góp phần làm tăng tính thanh khoản của thị trường. Trái phiếu Chính phủ là một phương tiện quan trọng để NHTW thực thi chính sách tiền tệ, thông qua việc mua bán trái phiếu Chính phủ mà NHTW tác động mạnh, thậm chí chi phối giá cả của trái phiếu trên thị trường. Các tín hiệu thắt chặt hay nới lỏng chính sách tiền tệ cũng tác động mạnh đến giá trái phiếu Chính phủ.
Đối với Việt Nam hiện nay thì thị trường trái phiếu Chính phủ chưa phát triển mạnh như các nước, thể hiện là thị trường trái phiếu Chính phủ chưa hình thành được đường cong lãi suất chuẩn, lượng giao dịch trên thị trường thứ cấp còn ít... Do vậy, sự ảnh hưởng của CSTT đến thị trường trái phiếu, đến giá trái phiếu Chính phủ còn hạn chế. Tuy nhiên, hiện nay trái phiếu Chính phủ là phương tiện chủ yếu để NHNN thực hiện việc bơm/ hút tiền từ nền kinh tế thông qua các công cụ CSTT, đặc biệt là thông qua nghiệp vụ thị trường mở, qua đó mà tạo tính thanh khoản cho trái phiếu Chính phủ và hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM. Nhờ vậy mà trái phiếu Chính phủ là kênh đầu tư an toàn, là danh mục đầu tư đảm bảo thanh khoản của các NHTM. Lượng trái phiếu mà các NHTM mua ngày càng tăng qua các năm. Việc các NHTM mua trái phiếu là điều kiện tốt để có thể huy động nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách một cách thuận lợi với chi phí thấp hơn nhiều so với phát hành trái phiếu trực tiếp cho người dân.
Mặt khác, mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất ngắn hạn với lãi suất trung và dài hạn đặt ra mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất trái phiếu Chính phủ với lãi suất chỉ đạo của NHTW. Việc xác định mức lãi suất trái phiếu cho thị trường sơ cấp nếu thiếu sự thống nhất với lãi suất chỉ đạo của NHTW sẽ gây ra những bất cập trong việc hình thành giá của sản phẩm tài chính trên thị trường, làm méo nó sự luân chuyển vốn trong xã hội. Chính vì vậy, khi Bộ Tài chính xác định lãi suất trái phiếu Chính phủ cần có sự tham chiếu lãi suất chỉ đạo của NHTW. Trên thực tế giữa NHNN và BTC đã có sự phối hợp trong việc hình thành lãi suất trái phiếu Chính phủ. Luật NHNN 1997 và 2010 cũng đã qui định trách nhiệm của NHNN là phải tham gia với Bộ Tài chính về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh. Hiện NHNN đang làm đại lý phát hành tín phiếu Kho bạc cho BTC, tham gia cùng với BTC xác định mức lãi suất tín phiếu hợp lý. Tuy nhiên, lãi suất trái phiếu cũng cần có cơ chế phối hợp thường xuyên trong việc xác định mức lãi suất trái phiếu, số lượng phát hành trái phiếu, để đảm bảo tính nhất quán về lãi suất trên thị trường, tạo cơ sở tốt để hình thành đường cong lãi suất chuẩn, cũng như tính hiệu quả trong quản lý nợ công, và NHNN với vai trò đại lý phát hành tín phiếu Kho Bạc, trong những trường hợp cần thiết khi lượng tín phiếu kho bạc không bán hết cho các NHTM, NHNN có thể mua để tạo công cụ can thiệp thị trường khi cần thiết, đồng thời cũng đáp ứng kịp thời nguồn thu của Chính phủ.
Trong cơ cấu nợ Chính phủ, nợ nước ngoài có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng thanh toán quốc gia, sự vay mượn nước ngoài quá mức sẽ đẩy nền kinh tế quốc gia phụ thuộc nhiều vào kinh tế nước ngoài. Bài học về khủng hoảng nợ Hy Lạp gần đây cho thấy rõ ràng về những quốc gia đang phát triển nóng theo đuổi những con số đẹp về chỉ tiêu tăng trưởng, nếu cứ tiếp tục đi vay và sử dụng tiền vay không hiệu quả, chắc chắn sẽ để lại cho thế hệ tương lai một món nợ khổng lồ. Đối với Việt Nam điều không thể phủ nhận là đang cần để tiến hành công nghiệp hoá và hiện đại hoá, việc vay nợ nước ngoài là cần thiết, song vay mượn và sử dụng nguồn vốn vay mượn đó như thế nào có hiệu quả là vấn đề phải được quan tâm. Nhiều quốc gia có những bước phát triển kinh tế đáng nể như Singapore, Hàn Quốc, và Trung Quốc đều phải vay nợ nước ngoài. Tuy nhiên, Chính phủ các quốc gia đó chỉ vay tiền để đầu tư vào hạ tầng cơ sở thiết yếu nhất để phục vụ phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Tiền vay được họ quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả. Hạ tầng cơ sở ở những quốc gia này một khi đã được xây dựng thì chất lượng rất tốt, được quy hoạch với tầm nhìn dài hạn chứ không phải ngay lập tức hay một thời gian ngắn sau đã phải làm lại, cải tiến hay mở rộng. Họ không vay tiền nước ngoài để dùng vào những dự án nhỏ lẻ, không thực sự đem lại nhiều giá trị lợi ích xã hội. Họ cũng không dùng những món nợ phải trả trong tương lai này để theo đuổi những siêu dự án trong khi hạ tầng kỹ thuật thiết yếu trong nước còn chưa đầy đủ...Các bài học kinh nghiệm này cho thấy, việc xây dựng một chiến lược nợ nước ngoài của quốc gia để đảm bảo cân đối vĩ mô có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam hiện nay, khi mà mức độ nợ nước ngoài đang ngay càng gia tăng và hiệu quả sử dụng vốn vay kém hiệu quả. Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm trong quản lý Nhà nước về ngoại hối, hoạt động ngoại hối;quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước;quản lý việc vay, trả nợ, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài theo quy định của pháp luật;chủ trì, phối hợp với cơ quan có liên quan chuẩn bị nội dung, tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế với tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế mà Ngân hàng Nhà nước là đại diện và là đại diện chính thức của người vay quy định tại điều ước quốc tế theo phân công, uỷ quyền của Chủ tịch nước hoặc Chính phủ. Do vậy mà Ngân hàng Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tham gia chiến lược quản lý nợ nước ngoài của quốc gia, trong đó có nợ công của Chính phủ.
Đứng trên giác độ quản lý rủi ro nợ Chính phủ thì sự ổn định tiền tệ, đảm bảo giữ giá trị của đồng tiền quốc gia, hay nói cách khác không để đồng tiền trong nước mất giá, đảm bảo cân bằng cung cầu ngoại tê, giảm tình trạng đô la hóa có ý nghĩa quan trọng không làm gia tăng nợ Chính phủ tính theo đơn vị đồng tiền quốc gia. Vấn đề này là trách nhiệm chung của các cấp các ngành, trong đó NHNN đóng vai trò quan trọng.
Tóm lại, sự tương tác giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa hướng tới phát triển bền vững là vấn đề cần được quan tâm trong quá trình điều hành hai chính sách này, theo đó việc điều hành hai chính sách này cần phải đảm bảo đầy đủ các nguyên tắc nhất quán, đồng bộ, hỗ trợ và chia sẻ thông tin trên cơ sở lựa chọn các kỹ thuật thực hiện đảm bảo tính khoa học và thực tiễn hướng tới hiệu quả cao nhất trong công tác phối hợp giữa hai chính sách với nhau, nhất là trong việc quản lý nợ công, mặc dù NHNN không phải là đơn vị chịu trách nhiệm chính trong quản lý nợ công, nhưng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tính hiệu quả của quản lý nợ công từ khâu xây dựng chiến lược quản lý nợ công đến khâu thực hiện chiến lược. Ngân hàng Nhà nước tham gia ý kiến với BTC về những vấn đề liên quan đến biến động thị trường tiền tệ, như mức lãi suất, tình hình thanh khoản, sự thay đổi về cung tiền; đưa ra quan điểm trong việc xây dựng kế hoạch, chiến lược quản lý nợ công về cơ cấu nợ, cơ cấu các loại chứng khoán, công cụ vay nợ, khối lượng và lãi suất, nguồn vay nợ ; thực hiện chức năng đại lý phát hành tín phiếu Kho bạc và nhận tiền gửi Kho bạc; tạo tính thanh khoản cho thị trường trái phiếu Chính phủ; bù đắp nguồn vốn thiếu hụt tạm thời cho thâm hụt ngân sách trong khuôn khổ CSTT cho phép......
[1]Tác động của CSTK lên cầu nội địa có thể làm thay đổi nhu cầu đầu tư vào nền kinh tế và qua đó ảnh hưởng đến lãi suất những ảnh hưởng của thị trường vốn liên quan đến nhu cầu đầu tư của Chính phủ có thể gây nên các thay đổi về lãi suất;
[2]Những thay đổi về tỷ lệ thuế gián tiếp, mức thuế quan, mức chi của Chính phủ và các công cụ tài khóa khác có ảnh hưởng trực tiếp đến lạm phát.
3DSR = D (r-g) / GDP trong đó: D = nợ công ròng danh nghĩa;GDP = GDP danh nghĩa;r = tỷ lệ lãi suất thực dự kiến trên nợ chính phủ; g = tỷ lệ tăng trưởng GDP thực dự kiến.
TS. Nguyễn Thị Kim Thanh
13.11.2024
30.10.2024