12.08.2013 09:16

Ngân hàng Hợp tác xã - Mô hình mới trong hệ thống Tổ chức tín dụng Việt Nam

Cùng với sự khẳng định tại Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, Thông tư 31/2012/TT-NHNN ngày 26/11/2012 quy định về Ngân hàng Hợp tác xã là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự ra đời Ngân hàng Hợp tác xã tại Việt Nam - Đây được xem là chuyển động mới trong hệ thống các tổ chức tín dụng với mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động, an toàn và bền vững của hệ thống các tổ chức tín dụng là hợp tác xã trong giai đoạn tới.

1.  Thực trạng  hoạt  động  của  hệ thống QTDND trong thời gian qua                      

Ngày   27/7/1993,  Thủ   tướng Chính  phủ đã  ban  hành Quyết định số 390/TTg cho phép triển khai thí điểm thành lập Quỹ tín dụng  nhân dân  (QTDND).   Sau gần 20 năm triển khai, đến nay đã hình thành và phát triển mô hình  QTDND  -  một  loại hình kinh tế hợp tác hoạt động trong lĩnh  vực  tiền  tệ,  tín  dụng  trên địa bàn  nông  thôn. Đến  nay, hệ  thống QTDND  có  QTDND Trung ương  (QTDTW)  và   gần 1200   QTDND   hoạt  động   tại 56/63 tỉnh, thành phố. Bên cạnh đó, Hiệp hội QTDND Việt Nam được thành lập năm 2005 đã tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ cho hệ thống  QTDND  phát triển.  Các QTDND  đã không  ngừng  phát triển và khai  thác  được nguồn vốn  tại  chỗ, góp  phần  đáp  ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống của thành  viên, thực  hiện  mục  tiêu xoá  đói  giảm  nghèo,  hạn  chế nạn  cho  vay  nặng  lãi  ở  nông thôn. Các QTDND  tuy  mới  ra đời nhưng đã tạo dựng được cơ sở vật chất tương đối ổn định, đáp ứng được phần lớn các yêu cầu của thành viên và phục vụ phát triển kinh tế địa phương, đã xây dựng được đội ngũ cán bộ bước đầu  đáp  ứng  được các  đòi  hỏi về nghiệp vụ. Hoạt động của hệ  thống QTDND đã tạo được niềm tin  của nhân  dân,  sự  đồng  tình ủng hộ của các ngành, các cấp. Do vậy, hoạt động của QTDND ngày càng đi vào ổn định và phát triển lớn mạnh. Hoạt động của hệ thống QTDND  thời  gian qua đã góp phần khai thác nguồn vốn tại chỗ đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ  sản  xuất kinh  doanh,  dịch  vụ và cải thiện đời sống của thành  viên; góp phần hạn chế nạn cho vay nặng lãi và thực hiện có hiệu quả mục tiêu xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn. Hoạt động của hệ thống QTDND  đã  khẳng  định  chủ  trương đúng  đắn  của  Đảng và  Nhà nước  về  phát triển  loại hình  kinh  tế  hợp  tác  hoạt  động  trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng- ngân hàng. Những kết quả đạt  được của hệ thống QTDND trong những năm qua đã chứng tỏ đây là một loại hình tổ chức tín dụng hợp  tác  phù  hợp  với  điều  kiện thực tiễn ở nước ta, mang lại lợi ích thiết thực góp phần tích cực phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp  công nghiệp  hoá,  hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn. Trong những năm qua, mô hình tổ  chức  của  hệ  thống QTDND dần được xác lập, đánh dấu một bước quan trọng trong giai đoạn hoàn thiện và phát triển hệ thống QTDND. Đánh giá về tổ chức và hoạt động của hệ thống QTDND trong  những  năm qua  cho  thấy nổi bật lên một số kết quả đáng khích lệ như sau:

Một là, sự hình thành và phát triển  của  hệ  thống  QTDND đã phần nào san lấp lỗ hổng trong hoạt  động ngân  hàng  ở  vùng nông  thôn,  vùng sâu,  vùng  xa, cung ứng dịch vụ ngân hàng đối với các đối tượng trước đây chưa từng được các ngân hàng quan tâm.              

Hai  là,  mối  quan  hệ  liên  kết giữa  QTDTW  với  các  QTDND cơ  sở trong  hệ  thống  QTDND được thiết lập và ngày càng gắn bó chặt chẽ. QTDTW là đầu mối điều hoà vốn cho toàn hệ thống, cho vay hỗ  trợ các QTDND cơ sở đáp ứng kịp thời nhu cầu chi trả,  cho  vay  mở  rộng  tín  dụng. Nguồn vốn của QTDTW đã giúp các  QTDND  cơ sở có  điều kiện tăng cường phát triển thành viên và đáp ứng nhu cầu về vốn phát triển sản xuất - kinh doanh - dịch vụ  của  thành  viên.  Đồng  thời QTDTW cũng đã bước đầu thực hiện được vai trò hỗ trợ thông tin và tư vấn, chăm sóc đối với các QTDND cơ sở.

Ba  là,  sau  giai đoạn  củng  cố, chấn chỉnh  các  QTDND cơ sở hoạt động tương đối ổn định, an toàn và ngày càng phát triển. Hầu hết các QTDND đã vượt qua khó khăn trong hoạt động, đặc biệt là những khó khăn trong thanh toán, chi trả trước những biến động bất ổn của thị trường, có tích lũy để đầu tư  xây  dựng trụ  sở  làm  việc và  trang  bị  cơ  sở  vật  chất  kỹ thuật phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Nhờ đó, quy mô hoạt động của nhiều QTDND ngày được mở rộng và hoạt động có tính chuyên nghiệp hơn.  

Bốn  là,  QTDTW  với vai  trò  là tổ chức  đầu  mối  của  hệ  thống QTDND phát   triển   tương  đối vững  chắc  với  Hội  sở chính  tại Hà Nội và 26 chi nhánh,  gần 70 phòng  giao  dịch  hoạt  động  theo các vùng,  miền  trong cả  nước đã góp phần tích cực trong việc điều hoà vốn và hỗ trợ nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống QTDND.

Năm là, hệ thống cơ chế, chính sách  điều  chỉnh  hoạt  động  của QTDND tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ đã tạo điều kiện thuận lợi cho QTDND hoạt động và ngày càng phù hợp hơn với đặc thù của QTDND.  Trình  độ cán  bộ  đặc biệt là cán bộ quản trị, điều hành, QTDND cơ sở dần  được nâng lên qua các khoá đào tạo, tập huấn nghiệp vụ.

Sáu là, sự ra đời của Hiệp hội QTDND Việt Nam đã đánh dấu bước  khởi  đầu  của  giai đoạn hoàn thiện và phát triển hệ thống kiểm soát của QTDND. Hiệp hội QTDND Việt Nam đã từng bước phát huy vai trò đại diện bảo vệ quyền lợi cho các  QTDND  hội  viên  và  triển khai  một  số  hoạt  động  liên  kết phát triển hệ thống QTDND như: thông tin, tuyên truyền, tư vấn, là cầu nối đối thoại với các cơ quan   chức  năng  của  Nhà  nước,  triển khai phần  mềm  tin  học  quản  lýnghiệp vụ ngân hàng...

Những kết quả trên đây tuy mới chỉ  bước  đầu nhưng có ý nghĩahết  sức  quan  trọng  đối  với  việc  tạo ra  tiền  đề xây  dựng  và phát triển bền vững hệ thống QTDND.Với những kết quả đạt được cho đến  nay  hệ  thống QTDND  đã khẳng định được chủ trương đúng đắn  của  Đảng  và  Nhà  nước  và ngành Ngân  hàng  về phát  triển  QTDND; đồng   thời QTDND cũng đã khẳng định được vai trò,vị trí của mình trong hệ thống các TCTD  Việt  Nam  cũng  như đóng góp tích cực vào sự nghiệp pháttriển  kinh  tế  - xã  hội  ở khu  vực nông nghiệp, nông thôn.

Bên  cạnh  những  kết  quả  đạt được,  hoạt  động  của  hệ  thống QTDND cũng bộc lộ một số hạn chế,  tồn  tại  đòi  hỏi  phải được khẩn trương khắc  phục nhằm đảm  bảo phát  triển an toàn  và hiệu quả hơn trong giai đoạn tới. Cụ thể:

Một là, các QTDND  được thành  lập  với  mục  tiêu  chủ  yếu là tương trợ giữa các thành viên để  phát  huy  sức  mạnh  tập  thể, giúp đỡ thành viên phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và nâng cao đời sống. Tuy nhiên, một bộ phận QTDND chưa bám sát mục tiêu hoạt động. Các QTDND này có biểu  hiện  chạy theo  động  cơ kinh doanh đơn thuần, chưa chấp hành nghiêm chỉnh quy trình tín dụng  bảo  đảm an  toàn  nên  vẫn còn  tiềm ẩn  những  rủi ro  trong hoạt động và gây ảnh hưởng đến sự an toàn của hệ thống.

Hai  là,  nhiều  QTDND cơ  sở vật  chất còn  nghèo  nàn,  vốn  tự có thấp, trình độ cán bộ hạn chế, món vay nhỏ trong khi đó chi phí tác nghiệp lớn nên hạn chế khả năng  tự tích  luỹ  tài chính,  tăng cường nguồn lực mở rộng quy mô để  phát  triển an  toàn  bền  vững. Bên cạnh đó, các nghiệp vụ còn đơn giản là huy động để cho vay; thực hiện các dịch vụ ngân hàng phi tín dụng còn hạn chế nên khả năng mở rộng, phát triển các sản phẩm  dịch  vụ,  tăng thu  nhập, tăng  cường năng  lực   cạnh tranh đối với các loại hình TCTD kháccòn nhiều  yếu  kém. Đây  là  một trong những yếu tố quan trọng đối với việc duy trì sự phát triển bền vững của hệ thống QTDND.

Ba  là,  thời  gian qua  mặc  dù công tác đào tạo được quan tâm nhưng trình độ của một số cán bộ QTDND vẫn chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước nhằm đảm bảo  quản  lý  vận  hành QTDND phát triển an toàn, bền vững. Bên cạnh đó, khả năng thu hút nguồn nhân lực có trình độ và duy trì đội ngũ cán  bộ, nhân viên có năng lực nghiệp vụ QTDND  thành thạo còn rất hạn chế.

Bốn  là,  tổ  chức liên  kết  phát triển hệ thống đã được hình thành nhưng chưa thực sự chặt chẽ và hiệu quả, chưa có sự hỗ trợ tích cực cho các QTDND cơ sở trong quá  trình  ổn  định  và phát  triển; các thiết chế về tổ chức liên kết, đặc biệt là về thông tin, kiểm soát nội bộ và thiết chế đảm bảo an toàn chưa được hoàn thiện. Điều này đòi hỏi phải sớm được khắc phục nhằm đảm bảo cho sự phát triển an toàn bền vững của từng QTDND  cũng như  cả  hệ  thống QTDND.

Năm  là,  QTDTW  do  hạn  chế về năng  lực  tài  chính,  trình  độ công nghệ cũng còn hạn chế nên chưa có điều kiện mở rộng quy mô, nghiệp vụ. Vì vậy, khả năng phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng chưa thực sự đa dạng. 

2.  Định  hướng  và  mục  tiêu  hoạt động  của  ngân  hàng  hợp  tác  xã trong giai đoạn tới

Tại  kỳ  họp  Quốc  hội  lần  thứ 7  khóa  XII  năm  2010,  Quốc  hội nước  Cộng  hòa  xã  hội  chủ  nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Các tổ chức  tín  dụng  số 47/2010/QH12. Theo đó:

- Khoản 7 Điều 4 quy định: “Ngân hàng Hợp tác xã (NHHTX) là ngân hàng  của  tất  cả các  QTDND  do  các QTDND và một số pháp nhân góp  vốn  thành lập  theo  quy  định  của  Luật  này  nhằm  mục tiêu  chủ yếu là liên kết hệ thống, hỗ trợ tài chính, điều hòa vốn trong hệ thống các QTDND”.

 - Điều 73 quy định:  “Tổ chức tín dụng hợp tác là loại hình tổ chức tín dụng được tổ chức theo mô hình hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng nhằm mục đích chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên thực  hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất,  kinh doanh  dịch  vụ và  cải thiện  đời  sống.  Tổ  chức  tín  dụng  là  Hợp  tác xã  bao  gồm NHHTX, QTDND”.

  Tại Quyết định 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 về việc Phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai  đoạn 2011-2015”, định hướng và giải  pháp củng cố phát  triển các QTDND đã chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện mô hình QTDND 2 cấp hiện  nay  gắn  liền với tăng  cường các thiết chế an toàn hoạt động và tạo điều  kiện  thuận  lợi  cho  QTDND phát triển. Đẩy mạnh chấn chỉnh,  củng cố và nâng cao mức độ an toàn, hiệu quả  các QTDND hiện có đi đôi với tiếp tục mở rộng vững chắc các QTDND mới ở khu vực  nông   thôn;   bảo  đảm   QTDND  tuân thủ  đúng  theo quy  định  của  Luật Các tổ chức tín dụng và Luật  Hợp  tác  xã;  tôn  trọng  nguyên  tắc tự  nguyện,  tự  chủ,  tự  chịu  trách nhiệm, cùng có lợi, hợp tác và phát triển cộng đồng hướng tới mục tiêu chủ  yếu  tương trợ  giữa  các thành viên của QTDND để góp phần xóa  đói,  giảm  nghèo,  phát  triển  nông  nghiệp, nông thôn và hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi”.


Về  giải  pháp  Đề  án chỉ  rõ: “Chuyển đổi QTDND Trung ương sang   hoạt  động theo  mô  hình NHHTX.  Phát triển QTDND Trung ương  đủ mạnh về quy mô, năng lực tài chính, trình độ quản trị, công nghệ để thực sự  đóng vai trò làm đầu mối điều hòa, cân đối vốn  trong  hệ  thống  QTDND  và có khả năng chăm sóc, hỗ trợ có hiệu quả cho  các QTDND cơ sở về chuyên môn nghiệp vụ, vốn và tài chính; tiếp tục mở rộng mạng  lưới chi nhánh của QTDND Trung ương đến  các   địa  phương có nhiều QTDND cơ sở để tăng khả năng tiếp  cận, hỗ trợ và chăm sóc  các QTDND cơ  sở;   đổi  mới và hoàn thiện mô hình điều hòa vốn trong hệ  thống các QTDND; QTDND  Trung  ương  tập  trung
nguồn vốn để ưu tiên  cho vay đối với các QTDND cơ sở”.
 

Như vậy, sau gần hai mươi năm hình thành và phát triển hệ thống QTDND đã từng bước khắc phục những bất cập và hạn chế, phát triển ổn  định,  ngày càng  phát triển. Nhà nước và Chính phủ đã có những định hướng mới đối với hệ thống các QTDND. Theo đó, Luật  các TCTD  2010  và  Quyết định 254/QĐ-TTg về Đề án “Cơ cấu  lại  hệ  thống  các TCTD  giai đoạn  2011-2015” đã  đưa  ra  mô hình NHHTX là ngân hàng của tất cả các QTDND, do các QTDND và  một  số  pháp nhân  góp  vốn thành lập.  NHHTX là mô hình mới và có vai trò là ngân hàng đầu mối của hệ thống QTDND. Mục tiêu hoạt động chính của NHHTX là: liên kết, bảo đảm an toàn của hệ thống thông qua việc hỗ trợ tài chính và giám sát hoạt động trong hệ thống quỹ tín dụng nhân dân. Hoạt  động  chủ  yếu  là  điều  hòa vốn và thực hiện các hoạt động ngân hàng đối với thành viên là các quỹ tín dụng nhân dân.

Với  định  hướng,  vai  trò  mới  -ngân hàng đầu mối của hệ thống- NHHTX được trao trách nhiệm khá  nặng  nề  đối  với  hệ  thống QTDND, với hoạt động chủ yếu là điều  hòa, hỗ trợ vốn  cho các QTDND thành  viên. Ngoài  ra, NHHTX  còn  có  trách  nhiệm  hỗ trợ các QTDND về hoạt động, về nghiệp vụ thông qua việc đào tạo, hướng dẫn nghiệp vụ, hỗ trợ kiểm toán; tham gia xử lý đối với quỹ tín dụng nhân dân thành viên gặp khó khăn hoặc có dấu hiệu mất an toàn trong hoạt động; quản lý tiền gửi điều hòa vốn của hệ thống quỹ tín  dụng nhân  dân...  Tuy nhiên, để  thực  hiện được  vai  trò này, trong  thời  gian  tới  NHHTX cần phải đồng thời giải quyết hai vấn đề đặt ra:

(i)  Bản  thân  NHHTX  phải  đủ mạnh  về quy  mô,  năng  lực  tài chính, trình  độ  quản trị, công nghệ để đảm trách vai trò là ngân hàng  đầu  mối  của  hệ  thống các QTDND;

(ii) Có   đủ  quyền hạn   để  xử  lý các mối quan hệ trong hoạt  động giữa hai pháp nhân (NHHTX và QTDND thành viên). NHHTX cần chủ động, chuẩn  bị nguồn lực, cơ chế, điều kiện để triển khai, thực hiện tốt quyền, trách nhiệm  trong thông tư quy định về ngân hàng hợp  tác  xã  nhằm  đảm bảo  cho hệ thống   phát  triển vững   mạnh, tập trung, thống nhất. Thông qua thực các quyền hạn nêu trên,  NHHTX có thể  căn  cứ  vào   kết  quả triển khai quyền hạn của mình để tiến hành  chăm sóc, hỗ trợ (về chuyên môn nghiệp vụ, vốn và tài chính) có hiệu quả hơn cho  các QTDND  thành viên. Đồng thời, đây cùng là một kênh giám  sát nội bộ để phát hiện sớm các rủi ro tiềm ẩn  của hệ thống  QTDND. Có thể nói, xuất phát từ những  đòi   hỏi xây  dựng  một mô  hình mới   đối  với  hệ  thong các TCTD là hợp tác xã, ngày  26/11/2012, NHNN đã ban hành Thông tư số  31/2012/TT-NHNN quy  định về ngân hàng hợp tác xã. Theo đó, Thông tư đã có những quy định mới về  quyền hạn và trách nhiệm của NHHTX đối với các QTDND thành   viên.  Đây  được   xem  là những quy   định  phù  hợp,   kịp thời khi QTDNDTW chuyển đổi thành NHHTX   và  cũng là  cơ sở  pháp lý quan trọng để xây dựng một  hệ  thống các  TCTD   là  hợp tác xã có tính liên kết chặt chẽ, tương trợ  giữa các thành viên tốt hơn, tạo nên sức mạnh chung của toàn hệ thống để cùng  phát triển  an toàn, bền vững trong gian đoạn tới.
TS. Nguyễn Thị Thanh Hương

Các tin liên quan