Ngày     27/7/1993,  Thủ   tướng    
Chính  phủ đã    ban  hành Quyết định số 390/TTg cho    
phép triển khai thí điểm thành   lập Quỹ tín dụng   nhân dân    
(QTDND).   Sau gần 20 năm  triển  khai, đến nay đã hình thành và phát    
triển mô hình  QTDND   -   một  loại hình kinh tế hợp   
tác hoạt  động  trong lĩnh   vực   tiền  tệ,     
tín   dụng   trên địa bàn   nông  thôn. Đến   
 nay,  hệ  thống QTDND   có   QTDND Trung ương     
(QTDTW)  và   gần 1200    QTDND      
hoạt  động    tại 56/63  tỉnh, thành phố.  Bên cạnh đó,  
 Hiệp  hội QTDND Việt Nam được thành  lập  năm 2005 đã  tạo điều kiện  thuận lợi 
  hỗ trợ  cho hệ thống  QTDND    phát triển.  Các   
QTDND     đã không  ngừng   phát  triển và khai    
thác     được nguồn vốn  tại    chỗ, góp   
phần    đáp    ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh  doanh, dịch vụ  và  
 đời sống của   thành   viên, thực  hiện   mục  tiêu  
xoá  đói    giảm   nghèo,  hạn  chế   nạn   
cho  vay   nặng   lãi    ở  nông thôn. Các  
 QTDND   tuy  mới   ra đời nhưng  đã tạo  dựng  được cơ sở vật 
 chất  tương đối  ổn định, đáp ứng được  phần lớn các  yêu cầu  của  thành viên 
 và phục  vụ  phát  triển kinh tế địa  phương, đã xây dựng  được  đội ngũ  cán 
bộ  bước  đầu    đáp  ứng    được các    đòi  hỏi  
về  nghiệp  vụ. Hoạt  động  của hệ  thống QTDND đã tạo được  niềm  
tin    của nhân    dân,   sự  đồng   tình ủng  hộ 
của  các   ngành, các cấp. Do  vậy,  hoạt động  của QTDND ngày càng  đi vào ổn  
định và   phát  triển lớn mạnh.  Hoạt động  của hệ  thống QTDND   
thời   gian  qua đã  góp  phần khai  thác nguồn vốn  tại  chỗ  đáp ứng nhu 
cầu về vốn phục   vụ    sản    xuất kinh    doanh,   
dịch  vụ và cải  thiện   đời sống của  thành   viên; góp   phần hạn 
chế nạn cho vay nặng  lãi  và thực   hiện có  hiệu quả mục  tiêu xoá đói,  giảm 
nghèo ở nông thôn.  Hoạt động  của hệ   thống  QTDND   đã    
khẳng  định    chủ  trương đúng    đắn  của   
 Đảng và    Nhà nước    về  phát triển  loại   
hình    kinh  tế  hợp    tác  hoạt  động  
trong  lĩnh vực  tiền tệ - tín dụng- ngân hàng.    Những kết quả  đạt  được 
của hệ   thống  QTDND trong những năm qua đã chứng   tỏ  đây là một loại hình tổ 
chức tín   dụng  hợp  tác  phù    hợp   với   
điều  kiện thực    tiễn ở nước ta, mang lại lợi ích   thiết  thực góp  phần 
tích cực phát triển  kinh  tế - xã hội và sự nghiệp     
công nghiệp  hoá,   hiện  đại  hoá  nông nghiệp - nông thôn. 
Trong   những năm qua, mô hình  tổ  chức   của   hệ  
thống QTDND  dần được xác lập,  đánh dấu   một bước quan  trọng trong giai  
  đoạn hoàn thiện và  phát triển hệ thống    QTDND. Đánh giá về tổ  chức và hoạt 
   động của hệ thống QTDND  trong     những   năm qua    
cho   thấy nổi bật lên một số  kết quả   đáng khích lệ như      
sau:
Một là, sự hình thành  
 và phát   triển  của  hệ  thống  QTDND đã phần nào san lấp  
 lỗ hổng   trong  hoạt  động ngân   hàng  ở  vùng   
nông    thôn,  vùng sâu,   vùng  xa, cung ứng dịch vụ   
  ngân hàng đối  với các đối tượng trước đây chưa từng được các ngân hàng quan   
tâm. 
                
     
Hai  là,    
mối    quan  hệ  liên  kết giữa  QTDTW  với   
 các    QTDND cơ  sở trong  hệ  thống  QTDND được  
 thiết lập và   ngày càng gắn bó chặt chẽ. QTDTW là đầu mối điều hoà vốn cho  
 toàn  hệ thống, cho   vay hỗ  trợ các QTDND cơ sở  đáp ứng kịp thời nhu  
cầu  chi  trả,     cho  vay  mở  rộng  tín  dụng.  
Nguồn  vốn  của QTDTW đã   giúp các   QTDND  cơ sở có    
điều  kiện  tăng  cường phát  triển  thành viên và đáp ứng nhu cầu về vốn phát  
 triển  sản  xuất -  kinh doanh -   dịch  vụ  của  thành  
 viên.    Đồng  thời  QTDTW cũng đã  bước  đầu thực hiện được vai trò 
 hỗ trợ thông  tin và tư  vấn,  chăm sóc đối với  các  QTDND cơ    
sở.
Ba  là,    
sau    giai đoạn  củng   cố, chấn chỉnh   
 các   QTDND cơ    sở hoạt động tương đối ổn định, an toàn và ngày càng  
phát  triển.   Hầu hết các   QTDND đã vượt qua khó khăn trong hoạt động, đặc  
biệt là  những khó   khăn trong   thanh toán, chi trả trước những biến động bất  
 ổn của  thị trường, có  tích lũy   để  đầu tư  xây    
dựng trụ  sở  làm  việc   và  trang  bị  
cơ  sở  vật   chất  kỹ thuật   phục vụ cho hoạt  động kinh  
doanh. Nhờ đó, quy  mô hoạt  động của nhiều QTDND  ngày  được mở rộng và  hoạt   
động có tính chuyên  nghiệp  hơn.     
Bốn  là,    
QTDTW    với vai  trò  là  tổ chức  đầu     
mối    của  hệ  thống QTDND phát   triển      
 tương  đối vững   chắc  với  Hội      
sở chính  tại Hà Nội và 26 chi nhánh,  gần 70 phòng     
 giao   dịch  hoạt  động   theo các vùng,     
 miền   trong cả  nước đã góp phần tích cực trong việc điều hoà   
  vốn và hỗ trợ nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống    
QTDND.
Năm là, hệ thống cơ    
 chế, chính   sách  điều  chỉnh  hoạt  động  của QTDND  
 tương đối  hoàn  chỉnh và đồng bộ đã tạo điều kiện thuận lợi cho QTDND hoạt    
động  và ngày  càng  phù  hợp hơn với đặc thù của QTDND.  Trình       
độ cán    bộ  đặc  biệt là cán bộ quản trị, điều hành, QTDND cơ   
  sở dần  được   nâng  lên qua các khoá đào tạo, tập huấn nghiệp   
vụ.
Sáu là, sự ra đời của  
 Hiệp hội   QTDND Việt Nam đã đánh dấu bước   khởi  đầu   
 của   giai   đoạn  hoàn thiện và phát triển hệ thống kiểm soát của QTDND.  
 Hiệp hội   QTDND  Việt Nam  đã từng bước phát huy vai trò đại diện bảo vệ quyền 
  lợi cho   các   QTDND  hội  viên  và  triển 
khai    một   số  hoạt   động  liên  kết phát 
triển hệ thống    QTDND như:   thông tin,  tuyên truyền, tư vấn, là cầu nối đối 
thoại với các cơ    quan    chức   năng   của  Nhà  
nước,   triển    khai phần   mềm   tin  học  
quản  lýnghiệp vụ     ngân  hàng...   
Những kết quả trên đây tuy mới chỉ  bước  đầu nhưng có ý 
 nghĩahết  sức  quan  trọng     đối  với     
việc  tạo ra   tiền  đề xây    dựng    
và phát triển bền vững hệ thống  QTDND.Với những kết quả đạt    được cho    
 đến  nay   hệ  thống QTDND  đã  khẳng định    được chủ 
    trương đúng đắn  của   Đảng  và  Nhà    nước  
 và   ngành Ngân   hàng  về phát   triển      
QTDND; đồng   thời QTDND cũng đã khẳng định được vai trò,vị trí của    
mình  trong hệ thống các TCTD  Việt  Nam  cũng     
 như đóng  góp tích cực vào sự nghiệp pháttriển  kinh   tế  
- xã   hội  ở khu  vực  nông nghiệp, nông    
 thôn.
Bên  cạnh  những   kết   quả  đạt được,   
 hoạt  động   của  hệ  thống QTDND  cũng bộc lộ một  số hạn  
 chế,  tồn  tại  đòi   hỏi   phải được    
khẩn trương khắc  phục nhằm    đảm    
 bảo phát   triển an toàn  và  hiệu quả hơn  trong giai 
     đoạn tới. Cụ thể:
Một là, các    
QTDND    được  thành  lập   với  mục  tiêu    
chủ  yếu là  tương  trợ giữa các thành viên  để  phát  huy   
 sức   mạnh   tập   thể, giúp đỡ thành viên phát triển sản xuất,  
 kinh doanh,  dịch vụ và  nâng  cao đời sống. Tuy nhiên, một bộ phận QTDND chưa  
 bám sát mục  tiêu hoạt  động. Các  QTDND này có biểu  hiện      
chạy theo   động  cơ  kinh doanh đơn thuần, chưa chấp hành  
 nghiêm  chỉnh quy trình tín  dụng   bảo  đảm an    
toàn    nên  vẫn còn    tiềm ẩn  những    
rủi ro    trong  hoạt động và gây ảnh   hưởng đến sự an toàn của hệ    
  thống.
Hai  là,    
nhiều    QTDND cơ  sở vật   chất còn  nghèo   
 nàn,    vốn  tự có thấp, trình độ cán  bộ hạn chế, món vay nhỏ trong  
 khi đó chi  phí  tác nghiệp lớn nên hạn chế khả  năng  tự tích   
  luỹ  tài chính,   tăng cường nguồn lực mở rộng quy mô để  
phát    triển an   toàn  bền  vững. Bên cạnh đó, các    
nghiệp vụ còn    đơn giản là huy động để cho vay; thực hiện các dịch vụ ngân   
hàng  phi tín dụng   còn hạn chế nên khả năng mở rộng, phát triển các sản    
phẩm  dịch    vụ,   tăng thu  nhập, tăng     
cường năng  lực   cạnh tranh đối với các loại hình TCTD    
kháccòn nhiều    yếu   kém. Đây  là  một  trong   
những yếu tố quan trọng đối   với việc duy trì sự phát triển bền vững của hệ     
 thống  QTDND.
Ba  là,    
thời    gian qua  mặc  dù  công tác đào tạo được quan tâm   
nhưng trình độ    của một số cán bộ QTDND vẫn chưa  đáp ứng được các tiêu chuẩn  
 theo quy định  của  Ngân hàng Nhà nước nhằm đảm  bảo  quản  lý   
  vận    hành QTDND phát triển an toàn,  bền vững. Bên cạnh đó, khả    
năng  thu hút   nguồn nhân lực có trình độ và duy trì  đội ngũ cán     
 bộ, nhân viên có năng     
lực nghiệp vụ QTDND  thành thạo còn rất hạn chế.        
 
Bốn  là,    
tổ  chức liên  kết   phát triển hệ thống đã được hình thành  
 nhưng   chưa thực sự chặt chẽ và  hiệu quả, chưa có sự hỗ trợ tích cực cho các  
 QTDND cơ    sở trong quá   trình  ổn  định     
và phát  triển;   các thiết chế về tổ  chức liên kết, đặc biệt là về   
  thông tin, kiểm soát nội bộ    và thiết chế đảm bảo an toàn chưa được hoàn   
thiện. Điều này đòi hỏi phải sớm    được khắc phục nhằm đảm bảo cho sự phát   
triển an toàn bền vững của từng   QTDND   cũng như  cả  
hệ  thống   QTDND.
Năm  là,    
QTDTW    do  hạn  chế về năng  lực  tài    
chính,    trình  độ công nghệ cũng còn  hạn chế nên chưa có điều kiện  
 mở rộng quy  mô,  nghiệp vụ. Vì vậy, khả năng phát  triển các sản phẩm dịch vụ  
   ngân hàng  chưa  thực  sự đa dạng.   
2.   Định  hướng  và   mục  tiêu  hoạt    
 động  của   ngân  hàng  hợp   tác  xã trong giai  
   đoạn tới   
Tại  kỳ  họp  Quốc    hội   lần  thứ     
7  khóa  XII  năm  2010,   Quốc  hội nước    
Cộng  hòa  xã  hội   chủ  nghĩa Việt Nam đã thông qua   
Luật Các tổ  chức  tín  dụng    số 47/2010/QH12. Theo đó:    
 
- Khoản 7 Điều 4 quy định: “Ngân hàng Hợp   tác xã  (NHHTX) là ngân   
hàng  của  tất   cả các    QTDND   do  các   
QTDND và một số pháp nhân góp   vốn    thành lập     
theo  quy  định   của  Luật    này   nhằm    
mục tiêu  chủ  yếu là liên kết hệ thống, hỗ trợ    tài chính, điều  
 hòa  vốn trong hệ thống các  QTDND”. 
 - Điều 73 quy định:   “Tổ chức   tín dụng hợp tác là loại   
hình tổ chức tín dụng được tổ chức theo  mô hình hợp   tác xã hoạt động trong   
lĩnh vực ngân hàng nhằm mục đích chủ yếu là  tương trợ    giữa các thành viên   
thực  hiện có hiệu quả các hoạt  động sản xuất,     
 kinh doanh   dịch  vụ và  cải  thiện  đời    
  sống.   Tổ  chức  tín   dụng  là  Hợp      
tác xã  bao   gồm NHHTX, QTDND”. 
  Tại Quyết định 254/QĐ-TTg ngày   01/3/2012 về việc Phê duyệt Đề  
   án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai      đoạn 2011-2015”, định hướng 
và   giải  pháp củng cố  phát  triển các   QTDND đã chỉ rõ: “Tiếp tục 
 hoàn   thiện mô hình  QTDND 2 cấp hiện  nay    gắn   liền với  
 tăng   cường các thiết chế an toàn hoạt động và  tạo    điều   
 kiện   thuận  lợi  cho  QTDND phát triển. Đẩy mạnh  chấn  
 chỉnh,   củng cố và nâng cao mức độ an toàn, hiệu  quả  các    
 QTDND hiện có đi  đôi với tiếp tục  mở rộng vững chắc các QTDND mới ở 
      khu vực   nông   thôn;     
 bảo  đảm    QTDND   tuân thủ  đúng   
 theo quy   định    của  Luật  Các tổ chức tín dụng  và  
 Luật  Hợp  tác   xã;   tôn   trọng  nguyên   
 tắc tự  nguyện,   tự  chủ,   tự  chịu  trách  
 nhiệm, cùng có lợi, hợp tác và  phát triển  cộng đồng  hướng tới mục tiêu  
 chủ  yếu    tương trợ  giữa    các thành viên của 
  QTDND để góp phần  xóa  đói,   giảm   nghèo,  phát   
 triển  nông   nghiệp, nông thôn và  hạn chế  tình trạng cho vay  
 nặng  lãi”.   
Về  giải  pháp  Đề  án chỉ  rõ: “Chuyển   
  đổi QTDND Trung ương sang   hoạt     động theo  mô    
hình NHHTX.  Phát triển QTDND Trung ương  đủ    mạnh về quy mô, năng   
lực tài chính, trình độ quản trị, công nghệ để thực   sự  đóng vai trò làm  
   đầu mối điều hòa, cân đối vốn  trong    hệ  thống    
QTDND  và có khả năng chăm sóc, hỗ trợ có hiệu quả    cho  các QTDND   
cơ sở về chuyên môn nghiệp vụ, vốn và tài chính; tiếp tục mở    rộng mạng   
 lưới chi nhánh của QTDND Trung ương đến  các      địa    
phương có nhiều QTDND cơ sở để tăng khả năng tiếp  cận, hỗ trợ  và  chăm   
sóc  các QTDND cơ  sở;   đổi  mới và  hoàn   
thiện mô hình điều hòa vốn trong hệ  thống các QTDND; QTDND     
 Trung  ương  tập  trung 
nguồn vốn để ưu tiên  cho vay   
     đối với các QTDND cơ sở”. 
    
Như vậy, sau gần hai mươi năm hình thành  và  phát  triển hệ thống   
QTDND đã từng bước khắc phục những bất cập và hạn chế,    phát    
triển ổn  định,   ngày càng  phát triển. Nhà nước  và   
Chính phủ đã có những định hướng mới đối với hệ thống các QTDND. Theo đó,     
Luật  các TCTD   2010  và  Quyết định 254/QĐ-TTg về Đề  
       án “Cơ cấu  lại  hệ  thống  các TCTD   giai 
       đoạn  2011-2015” đã   đưa  ra  mô hình NHHTX là 
 ngân   hàng  của tất cả các QTDND, do các QTDND và  một   số  
pháp nhân   góp  vốn thành lập.   NHHTX là mô hình mới  
 và có vai trò là ngân hàng đầu mối của hệ thống  QTDND. Mục tiêu hoạt động    
chính  của NHHTX là: liên kết, bảo đảm an toàn của hệ  thống thông qua việc hỗ   
    trợ tài  chính và giám sát hoạt động trong hệ thống quỹ  tín dụng nhân dân.  
  Hoạt   động  chủ  yếu  là   điều  hòa vốn    
và thực hiện  các hoạt  động ngân hàng đối với thành viên là các quỹ tín    
dụng nhân dân.   
Với  định  hướng,   vai   trò   mới      
-ngân hàng đầu mối của hệ thống- NHHTX được trao  trách  nhiệm khá    
nặng  nề  đối  với  hệ  thống   QTDND,  với hoạt động   
chủ yếu là điều  hòa, hỗ trợ  vốn  cho các   QTDND thành     
viên. Ngoài  ra, NHHTX  còn  có    trách  nhiệm    
hỗ trợ các QTDND về hoạt động, về nghiệp vụ  thông qua   việc đào tạo, hướng  
 dẫn  nghiệp vụ, hỗ trợ kiểm toán; tham gia xử lý  đối với  quỹ  tín dụng nhân  
 dân  thành viên gặp khó khăn hoặc có dấu hiệu mất an  toàn  trong  hoạt động;  
 quản lý  tiền gửi điều hòa vốn của hệ thống quỹ  tín     
 dụng nhân    dân...  Tuy nhiên, để  thực     
 hiện được    vai  trò này, trong   thời    
 gian   tới    NHHTX cần phải đồng thời giải quyết hai vấn đề đặt 
   ra:
(i)  Bản  thân   NHHTX   phải   đủ mạnh   
 về quy   mô,  năng    lực  tài   
chính, trình   độ  quản trị, công nghệ để đảm   trách vai  
trò  là ngân  hàng   đầu  mối   của  hệ  thống các 
   QTDND;
(ii) Có   đủ  quyền hạn   để  
xử  lý các mối quan hệ trong hoạt  động giữa hai pháp nhân (NHHTX và   
 QTDND thành viên). NHHTX cần chủ động, chuẩn  bị nguồn lực, cơ chế, điều   
 kiện để triển khai, thực hiện tốt quyền, trách nhiệm  trong thông tư quy   
     định về ngân hàng hợp  tác  xã  nhằm  
đảm bảo    cho  hệ thống   phát  
triển vững   mạnh,  tập   trung, thống nhất. Thông qua thực các 
quyền hạn nêu trên,      NHHTX có thể  căn  cứ  
vào   kết  quả        triển khai quyền hạn của mình để tiến 
hành  chăm sóc, hỗ trợ (về chuyên   môn  nghiệp vụ, vốn và tài chính) có 
hiệu quả hơn cho  các QTDND    thành   viên. Đồng thời, đây cùng là 
một kênh giám  sát nội bộ để phát   hiện  sớm  các  rủi ro tiềm ẩn  
của hệ thống  QTDND. Có thể nói, xuất   phát  từ    những  
đòi   hỏi xây  dựng    một mô  hình  
mới   đối  với  hệ  thong   các TCTD là hợp tác 
xã,  ngày  26/11/2012, NHNN đã ban hành Thông tư     số  
31/2012/TT-NHNN   quy  định về ngân hàng hợp tác xã. Theo đó,   Thông tư đã 
có những quy định   mới về  quyền hạn và trách nhiệm của NHHTX     đối với 
các QTDND   thành   viên.  Đây  được     xem  
là   những quy   định  phù  hợp,     kịp thời 
khi   QTDNDTW chuyển đổi thành NHHTX   và    
cũng là  cơ    sở  pháp lý quan trọng để xây dựng một    
hệ  thống các    TCTD   là  hợp tác xã có tính   
liên kết chặt chẽ, tương trợ  giữa các thành viên tốt hơn, tạo nên sức  
 mạnh  chung của toàn hệ thống để    cùng  phát triển  an toàn, bền  
 vững  trong gian đoạn    
tới.