1.Tín dụng đen là gì
Tín dụng “đen” là cụm từ mà dân gian hay dùng để chỉ các dạng huy động và cho vay tín dụng không qua hệ thống ngân hàng, không đăng kí kinh doanh, cũng như chưa được cấp phép và chịu sự quản lý chính thức bởi bất cứ cơ quan quản lý Nhà nước hữu quan nào.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng “đen” là giao dịch ngầm, nội bộ, không ồn ào, có lãi suất huy động và cho vay cao, trong khi thủ tục thực hiện thì vô cùng đơn giản so với các hoạt động tín dụng ngân hàng chính thức đương thời. Về nguyên tắc, một mặt, hoạt động tín dụng “đen” thường diễn ra ngầm, giữa các cá nhân với nhau, không qua tổ chức và thủ tục chính thức nào, nên rất khó để xử lý, trừ phi những đối tượng này có đơn trình báo đến cơ quan chức năng. Mặt khác, những vấn đề giữa người đi vay và cho vay tín dụng “đen” thuộc tranh chấp dân sự, nên cũng khó để cơ quan thanh tra ngân hàng có thể có chế tài can thiệp. Còn nếu xét đây là quan hệ pháp luật, thì cơ quan quản lý không phải là thanh tra ngân hàng.
Tín dụng “đen” có hình thức khá đa dạng và tồn tại từ lâu ở Việt Nam, cũng như ở nhiều quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới…
2. Những xu hướng đen của tín dụng “đen”
Ở Việt Nam, trong thời gian gần đây xuất hiện và đang đậm dần một số xu hướng mới trong hoạt động tín dụng “đen” đáng báo động như sau:
Thứ nhất, thành phần và nguyên nhân tham gia các hoạt động tín dụng “đen” ngày càng đa dạng, mở rộng và phức tạp.
Thành phần tham gia tín dụng “đen” đang có sự mở rộng nhanh chóng, bao quát ngày càng rộng các tầng lớp, giới và cả lĩnh cực của đời sống kinh tế - xã hội: Đó có thể là những sinh viên nghèo kẹt tiền trọ tháng hay cần tình phí đãi người yêu; cô “cave” tự nguyện hay bị buộc phải sử dụng tín dụng “đen” như một “nguyên tắc nghề nghiệp”; những bà bán hàng rong, bà chủ kinh doanh nhỏ tại chợ quê hay tỉnh; nhà đầu tư chứng khoán, cho đến cả những doanh nghiệp có đăng kí kinh doanh và biển hiệu đàng hoàng; những đại gia “gia truyền” – chủ cửa hàng vàng lớn nhất nhì Thành phố trực thuộc Trung ương, và cả các thiếu gia mới “phất” một cách đầy bí ẩn ở tỉnh lẻ; từ những người thân quen, họ hàng kể cả ruột thịt, cho tới những người xa lạ, “cùng quá hóa quẫn” một khi đã xa cơ lỡ vận; những phần tử ”xã hội đen” cho đến cả những doanh nhân thành đạt và công, viên chức tại nhiệm; từ loại người quen “cáo mượn oai hùm”, đến cả những vị quyền cao, chức trọng đầy mình hoặc người nhà của họ; nhiều nhân viên ngân hàng lợi dụng uy tín, công việc của mình để huy động vốn, sau đó cho vay với lãi suất không đúng quy định của Nhà nước.
Người vay có thể đang cháy bạc, khát nước và cần tiền chi trả cho những tổn thất mà họ phải trả vì dính vụ rớt giá sâu và kéo dài khi lướt sóng ngầm trong các phi vụ chứng khoán và nhà đất; hay cần vốn để kinh doanh chụp giựt “quả lớn” mà họ thường tự ám thị mình đã nắm chắc phần thắng “trong tầm tay”; trong khi thủ tục và điều kiện vay chặt chẽ của ngân hàng khiến họ ngại ngần, không muốn hoặc không tiếp cận được các nguồn vốn khác, do không thuyết phục được về mục đích và khả năng chi trả các khoản vay đúng hạn, cũng như không đủ kiên nhẫn chờ thủ tục thẩm định cần thiết của bên cho vay. Thông thường, vào dịp cuối năm, nhu cầu trả nợ cùng với các hoạt động vay mượn cho nhu cầu kinh doanh và tiêu dùng, tệ nạn cờ bạc tăng cao khiến cho lãi suất nhanh chóng đội lên và quy mô tín dụng cũng theo đó mà mở rộng, bất chấp hạn mức tín dụng của Ngân hàng Nhà nước ( NHNN ) luôn được thông báo trên tivi suốt 24h/ngày/tháng/năm…
Người cho vay thường là người có tiền tích trữ mà không muốn gửi hay kinh doanh ngân hàng với lãi suất thấp; hoặc đơn giản chỉ là người huy động trung gian để hưởng chênh lệch lãi suất hay hoa hồng hấp dẫn. Tuy nhiên, có nhiều người đóng vai trò chuyên nghiệp hơn, trở thành kẻ cho vay nặng lãi có máu mặt lâu năm ở địa phương, với đội ngũ nhân viên “có số má”, luôn sẵn sàng và ưa chuộng “thực thi công vụ” bằng “luật rừng”, lạnh lùng và tàn nhẫn.
Đặc biệt, trước cánh cửa “đóng băng” hạn ngạch và “rừng” thủ tục của các dòng tín dụng ngân hàng trong thời buổi khủng hoảng kinh tế - tài chính lan rộng hiện nay, ngày càng nhiều cá nhân có nhu cầu bất khả kháng về tiêu dùng phi sản xuất, hay những doanh nghiệp kẹt vốn kinh doanh sản xuất thực sự và đáo nợ ngân hàng đang “nhắm mắt đưa chân”, tìm đến tín dụng “đen” như một giải thoát cuối cùng. Trong quá trình này, thậm chí “người trong cuộc” còn có thể có sự tiếp tay của một số nhân viên ngân hàng và nhân viên công lực địa phương…
Các cơ quan quản lý nhà nước trong khi theo đuổi những mục tiêu vĩ mô tốt đẹp, cũng như các ngân hàng vì sự an toàn của mình và hệ thống ngân hàng, vô tình hay cố ý thường tạo bờ đê ngăn cách người dân, doanh nghiệp với các dòng tín dụng chính thức,tạo khoảng trống, dư địa cho sự tồn tại của tín dụng “đen”.
Thứ hai, lãi suất huy động và cho vay tín dụng “đen” ngày càng cao, thủ tục ngày càng thoáng.
Không có “trần hay sàn lãi suất” nào cả như các bác bên tín dụng chính quy, mà hoàn toàn “thuận mua vừa bán”: từ lãi suất “hữu nghị” chỉ 0,15% một ngày, tương ứng 4,5% một tháng, 54% một năm cho các khoản vay ngắn hạn từ năm ngoái, hiện đã lên tới 10.000đồng/1 triệu đồng/1 ngày, tương đương với 30%/tháng và 360%/năm. Cá biệt, tại Hà Nội, gần đây có hiện tượng cho vay với lãi suất 30-40%/tháng (360-480%/năm). Nhưng phổ biến hơn cả vẫn là mức 5000-6000 đồng/1 triệu đồng/1 ngày, tương đương với khoảng trên dưới 200%/năm (khoảng gần 20% một tháng), gần gấp đôi so với hồi giữa năm nay và luôn cao gấp hơn hàng chục lần lãi suất chính thức của bất kỳ ngân hàng nào cùng thời điểm so sánh. Cơ chế “hoạt động đa cấp” ( nhiều trung gian tài chính và ăn dầy) trong tín dụng “đen” càng khiến cho mức độ và biên độ chênh lệch lãi suất ngày càng lớn, thậm chí cao thêm tới 2-3 lần lãi suất gốc… Càng qua nhiều trung gian thì lãi suất càng đẩy lên cao, nhưng dù lãi suất cao bao nhiêu cũng không làm kẻ huy động và cho vay sợ hãi như các ngân hàng vốn quen hạch toán và quản trị rủi ro tín dụng theo bài bản giáo khoa…
Thủ tục hoạt động tín dụng “đen” cũng thật đơn giản, mà các cơ quan tín dụng chính thức có cải cách hành chính cả chục năm nữa cũng khó theo kịp. Các giao dịch được hoàn tất có khi chỉ trong vài phút, thế chấp có khi chỉ cần một chứng minh nhân dân. Một bản photo không cần công chứng ủy quyền về nhà, đất; thậm chí, một lời hứa và thỏa thuận miệng và khả năng tín chấp luôn mở rộng cho những khách quen có giao dịch với nhau đủ uy tín từ 2 lần trở lên…!
Thứ ba, quy mô và hệ quả đổ vỡ tín dụng “đen” ngày càng lớn.
Chí trong thời gian ngắn, không chỉ Hà Nội, mà còn ở trên nhiều tỉnh thành lớn, cũng như miền quê nghèo trên cả nước đã, đang và sẽ còn tiếp tục rộ lên những vụ vỡ tín dụng “đen” với quy mô ngày càng “khủng” từ vài trăm tới ngót nghét ngàn tỷ đồng và tác hại kinh tế - xã hội ngày càng khó đo lường…
Người vay ngày càng đối diện với sự gia tăng chóng mặt đến kinh hoàng của món nợ phải trả tích cóp theo năm tháng do “lãi mẹ đẻ lãi con” và viễn cảnh bị phá sản, bị xiết nợ đầy bạo lực luôn treo lơ lửng trên đầu con nợ…
Người cho vay hay làm trung gian huy động vốn với lãi suất cao, quy mô lớn thường chỉ nhận được chút lộc ban đầu khá ngọt ngào,rồi bỗng chốc mất trắng đầy cay đắng do đột ngột con nợ bị “vỡ nợ kỹ thuật” với nhiều lý do mùi mẫn và ly kỳ, hay đơn giản là do con nợ biến mất không tung tích, mà cơ quan pháp luật nhà nước đôi khi cũng khó tìm, còn việc thu hồi nợ là khó hơn mò kim đáy bể…
Đặc biệt, hệ quả của những hoạt động đổ vỡ trong hoạt động tín dụng đen tính chất lừa đảo ngày càng lớn. Tín hiệu thông thường và phổ biến, đặc trưng cho những lừa đảo trong tín dụng “đen” thường là lãi suất cao, trả lãi đều, uy tín trong thời gian đầu, đủ để người cho vay “ngấm, say và phê” trước lợi nhuận cao và dễ dãi ban đầu. Hỗ trợ cho màn trình diễn này, nhiều kẻ chủ động lừa đảo trong tín dụng đen còn cố tình phô trương thanh thế bằng những chiêu khuyến mãi, từ thiện và vung tiền chơi đẹp, hoành tráng, khiến đối tác choáng ngợp và bị thôi miên trước “chiếc nồi Thạch Sanh” tiền của vô tận và tài năng xuất chúng, cùng thương hiệu “uy tín đầy mình” của kẻ chủ mưu giăng bẫy…
3.Giải pháp nào cho tín dụng “đen”.
Ngăn chặn tác động tiêu cực của tín dụng “đen” tùy thuộc quyết định vào hoàn cảnh và nhận thức của người trong cuộc; đồng thời, Nhà nước cũng khó quản lý các tác động mặt trái của dòng tín dụng này khi nó bị vỡ nếu thiếu quan tâm hay các cơ sở pháp lý cần thiết…
“Bẫy” tín dụng “đen” không khó nhận ra, nếu ai đó có kiến thức tối thiểu về kinh tế thị trường và không quá ham lời từ trên trời rơi xuống. Quy luật “lợi nhuận bình quân” đã, đang và sẽ tiếp tục tồn tại trong kinh tế thị trường; đồng thời, nó cũng là một trong các nguyên lý hàng đầu để nhận diện bẫy tín dụng “đen”. Theo đó, không có lợi nhuận cao kéo dài trong kinh doanh có cạnh tranh đầy đủ thị trường, mà sẽ có sự cào bằng dần, thậm chí rất nhanh chóng các mức lợi nhuận để tiến tới mức lợi nhuận trung bình như nhau giữa các dạng, lĩnh vực kinh doanh, dù ban đầu có thể thu được lợi nhuận độc quyền cao. Vì vậy, bất cứ dạng hoạt động kinh tế nào mang lại hay hứa hẹn mang lại món lợi nhuận nào cao bất thường, đều luôn chứa đựng những rủi ro tiềm tàng và không thể kéo dài, bền vững. Nói cách khác, không nên tin chắc và đắm đuối chạy theo những khoản lãi suất cho vay cao bất thường, mà những người huy động vốn tín dụng “đen” đưa ra mời chào, dù với bất kỳ lý do nào. Phương ngôn từng có câu cảnh tỉnh khôn ngoan và không bao giờ lạc hậu: “Miếng Phomat dễ kiếm nhất và không mất tiền chỉ có ở trên chiếc bẫy chuột”!
Bên cạnh đó, cần có sự phát triển mạnh mẽ và đa dạng hơn thị trường tài chính – tín dụng có tổ chức, cả về chủng loại, quy mô, thủ tục và chất lượng sản phẩm tín dụng, để ngày càng bao quát và phủ sóng đáp ứng các nhu cầu tín dụng chính đáng của người dân và doanh nghiệp, không để cho tín dụng “đen” có nhiều lý do tồn tại và phát triển.
Đặc biệt, NHNN và các cơ quan chức năng cũng cần có sự quan tâm đúng mức hơn đến xây dựng và đồng bộ hóa các cơ sở pháp lý cho việc quản lý, ngăn chặn và xử lý các hệ quả nguy hiểm của tín dụng “đen”, không để tín dụng “đen” phủ bống đen và ngày càng trở thành nguy cơ tiềm tàng, trực tiến và gián tiếp, trước mắt và lâu dài gây thảm kịch cá nhân và cộng đồng, thậm chí đe dọa mất ổn định, hủy hoại đạo đức và lòng tin xã hội.