15.09.2023 11:20

Thông tư 06/2023/TT-NHNN: Cơ hội để khách hàng giảm chi phí vay vốn

Nhận diện… điểm nghẽn

Nhìn lại năm 2022 và những tháng đầu năm 2023, kinh tế - tài chính thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn và biến động khó lường hơn rất nhiều so với đánh giá, dự báo. Bên cạnh những bước phát triển vượt bậc, đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận, thị trường tài chính Việt Nam cũng bộc lộ một số hạn chế và xuất hiện một số rủi ro. Vậy làm gì để đạt mục tiêu đảm bảo thị trường tài chính cung ứng vốn một cách an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, huy động nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội.

Trong lĩnh vực ngân hàng, theo TS. Vũ Nhữ Thăng, quy mô tín dụng/nền kinh tế đã ở mức cao so các nước cùng trình độ phát triển. Trong thời gian qua, mặc dù có sự dịch chuyển trong cấu trúc, hệ thống tài chính Việt Nam về cơ bản vẫn dựa vào ngân hàng. Theo đánh giá của WB, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam thuộc nhóm cao nhất thế giới, là mức cảnh báo về rủi ro bất ổn vĩ mô tiềm ẩn. IMF cũng cho rằng việc tăng tín dụng/GDP đến một ngưỡng nhất định (khoảng 100%) có thể làm tăng rủi ro đối với tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Năm 2022 - 2023, trong bối cảnh huy động vốn trên thị trường vốn bị suy giảm trước tác động của kinh tế thế giới và các diễn biến tiêu cực trong nước, áp lực lên vốn tín dụng ngân hàng ngày càng tăng, nới rộng thêm khoảng cách với quy mô thị trường chứng khoán (TTCK). Điều này đặt ra yêu cầu hỗ trợ nền kinh tế phải đi đôi với bảo đảm chất lượng tín dụng, an toàn và ổn định kinh tế vĩ mô.


Cùng với đó, tín dụng vẫn tập trung vào lĩnh vực bất động sản và có xu hướng tăng nhanh. Nguồn cung ứng vốn tín dụng trung và dài hạn phụ thuộc nhiều vào vốn tín dụng ngân hàng… trong khi đó, các trung gian tài chính gặp nhiều khó khăn, nhất là trong xử lý tài sản đảm bảo các khoản vay. Từ khi Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD có hiệu lực đến nay, nợ xấu theo TCTD báo cáo đã giảm dần mức 2,5% năm 2017 xuống mức 1,5% năm 2021, nhưng đã tăng trở lại lên trên 2% năm 2022. Bên cạnh nguyên nhân kinh tế khó khăn ảnh hưởng đến nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp, các TCTD cũng gặp trở ngại trong xử lý nợ xấu, đặc biệt là khó khăn trong việc xử lý tài sản bảo đảm. Trên thị trường tài chính, huy động vốn trên TTCK gặp nhiều khó khăn. Tài khoản chứng khoán mở mới tăng, thanh khoản cải thiện trên thị trường thứ cấp, trong khi hoạt động IPO, phát hành thêm sụt giảm. TTCK Việt Nam chưa hoàn thiện các tiêu chí thị trường để đáp ứng yêu cầu nâng hạng, chưa thu hút được dòng vốn lớn và ổn định từ thị trường quốc tế... Trong khi đó, việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp còn khó khăn. Theo Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA), quy mô toàn thị trường TPDN tính đến nay mới đạt khoảng 1,15 triệu tỷ đồng, chiếm gần 15% GDP cả nước và thấp hơn nhiều so với các quốc gia thuộc nhóm phát triển hơn trong ASEAN như Malaysia (56% GDP), Singapore (38% GDP) hay Thái Lan (25% GDP). Trong khi đó, vai trò các quỹ tài chính nhà nước còn mờ nhạt; và thiếu vắng các cơ chế thử nghiệm (Sandbox) cho các sản phẩm tài chính mới và tiền đề cho việc thành lập trung tâm tài chính quốc tế/khu vực…

Minh bạch để khơi thông dòng vốn

Để cải thiện dòng vốn cho nền kinh tế, TS. Vũ Nhữ Thăng cho rằng, trước hết cần nâng cao hiệu quả phân bổ tín dụng; Kiểm soát tăng trưởng tín dụng hợp lý nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế; hướng nguồn vốn tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, nhất là lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng theo chủ trương của Chính phủ và Quốc hội. Kiểm soát chặt chẽ dòng vốn tín dụng vào các lĩnh vực rủi ro cao như chứng khoán, bất động sản (thông qua điều chỉnh tăng hệ số quy đổi rủi ro đối với các ngành này trong điều kiện cần thắt chặt hơn nữa). Cùng với đó là đẩy nhanh và thực hiện có hiệu quả các đề án/phương án cơ cấu lại các TCTD yếu kém, không để tình trạng các TCTD yếu kém, lỗ lũy kế kéo dài ảnh hưởng đến hệ thống TCTD. Nhanh chóng sửa Luật Các TCTD để phù hợp với môi trường kinh doanh; Cần có lộ trình, thời hạn cụ thể trong việc thực hiện giảm tỷ lệ Nhà nước sở hữu cổ phần ở các TCTD...

Trong lĩnh vực chứng khoán, cần hoàn thiện các quy định liên quan đến nâng hạng TTCK. Tiếp tục đẩy nhanh đưa vào vận hành hệ thống công nghệ KRX, triển khai mô hình đối tác bù trừ trung tâm cho TTCK, triển khai các nghiệp vụ giao dịch trong ngày, cho vay cổ phiếu, bán khống cổ phiếu.

Cùng với đó, cần tiếp tục đa dạng hóa các sản phẩm trên thị trường, triển khai các sản phẩm cho nhà đầu tư nước ngoài giao dịch cổ phiếu hết room, ngành nghề kinh doanh có điều kiện, yêu cầu công bố thông tin bằng tiếng Anh (bắt buộc đối với các doanh nghiệp niêm yết thuộc rổ VN30, HNX30), áp dụng các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS)… Ngoài ra, cần đẩy mạnh việc minh bạch thông tin để bảo vệ người tiêu dùng. Bổ sung vốn cho các quỹ tài chính nhà nước tại địa phương để các quỹ tài chính chính nhà nước là “vốn mồi” thu hút các nguồn vốn khác để đồng tài trợ cho các dự án. Đồng thời Chính phủ cũng cần có lộ trình về việc xây dựng thị trường tài chính với chính sách đột phá để thu hút các định chế tài chính từ các thị trường tài chính lớn trên thế giới.
Theo thời báo Ngân hàng

Các tin liên quan