Vấn đề “tồn kho vốn” của ngân hàng hiện chỉ là câu chuyện phía sau, phản ánh bức tranh tồn kho tăng khi đơn hàng giảm khiến hoạt động sản xuất kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp vô cùng khó khăn. Đây là một trong những yếu tố chính khiến sức hấp thụ vốn yếu cần sớm có các giải pháp tháo gỡ.
Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú phát biểu khai mạc hội thảo Tồn kho và tồn kho
Theo số liệu mới nhất của NHNN, tính đến cuối tháng 5/2023 tổng phương tiện thanh toán tại các TCTD, bao gồm tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tiền gửi của dân cư, và tiền các khoản phát hành giấy tờ có giá đạt số dư 14,517 triệu tỷ đồng, tăng 2,05% so với cuối năm 2022. Đáng chú ý dù mặt bằng lãi suất huy động giảm mạnh gần đây, nhưng lượng tiền gửi của dân cư tiếp tục tăng mạnh lên mức 6,347 triệu tỷ đồng, tăng hơn 677.000 tỷ đồng (8,21%) so với cuối năm ngoái và là mức cao kỷ lục từ trước đến nay. Trong khi đó, bức tranh từ hoạt động “đầu ra” của hệ thống lại hoàn toàn trái ngược, với tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm 2023 mới đạt khoảng 12,5 triệu tỷ đồng, tăng 4,73% so với cuối năm 2022 dù lãi suất cho vay đã, đang và sẽ tiếp tục xu hướng giảm.
Theo lẽ thông thường, khi tín dụng thường xuyên ghi nhận mức tăng trưởng hai con số trong những năm trước đây, việc dòng tiền gửi chảy mạnh vào hệ thống ngân hàng luôn được xem là yếu tố tích cực, bởi nhờ đó mà thị trường và hoạt động sản xuất kinh doanh luôn trong tình trạng “khát vốn” ngoài kia – với gánh nặng lo vốn cho nền kinh tế luôn đặt trên vai hệ thống ngân hàng - mới được đáp ứng. Nhưng thực trạng hiện nay – ít nhất từ đầu năm đến nay – lại rất khác. Dòng tiền gửi tăng (dù lãi suất đang giảm nhanh) không chỉ phản ánh tiết kiệm vẫn là kênh nơi trú ẩn an toàn, sinh lợi “tạm ổn”, mà còn cho thấy các kênh đầu tư sinh lời khác đang rất khó khăn. Vốn đầu vào liên tục tăng, thanh khoản dồi dào, room tín dụng rộng mở… trong khi đầu ra lại “ì ạch” đang đặt các ngân hàng vào thế khó. Vì muốn hay không cứ “đến hẹn lại lên”, ngân hàng vẫn phải trả lãi cho người gửi tiền. “tồn kho vốn” có lẽ là cụm từ phù hợp để miêu tả thực trạng hiện nay của các ngân hàng.
Vấn đề “tồn kho vốn” của ngân hàng thực tế chỉ là câu chuyện phía sau, phản ánh bức tranh tồn kho tăng khi đơn hàng giảm khiến hoạt động sản xuất kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp vô cùng khó khăn hiện nay. Giải bài toán làm sao tăng hấp thụ vốn, do đó cũng cần xem xét từ nhiều góc độ hơn, thay vì chỉ liên quan đến giảm lãi suất và các vấn đề liên quan trực tiếp đến tín dụng. Hội thảo “Tăng khả năng hấp thụ vốn cho doanh nghiệp” ngày 25/7, do Thời báo Ngân hàng là đầu mối tổ chức dưới sự chủ trì của NHNN và Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Việt Nam, là một trong những nỗ lực để nhận diện và tháo gỡ vấn đề hấp thụ vốn hiện nay.
Phát biểu khai mạc hội thảo, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú cho biết, trong 6 tháng đầu năm 2023, kinh tế thế giới tiếp tục biến động nhanh, khó lường, sản xuất thương mại toàn cầu khó khăn; lạm phát ở mức cao, chính sách tiền tệ thắt chặt và lãi suất tăng lên rất nhanh, kéo dài… Trong nước, tăng trưởng kinh tế thấp hơn kịch bản đề ra trong bối cảnh tổng cầu thế giới giảm cùng những khó khăn nội tại của nền kinh tế; các thị trường xuất nhập khẩu lớn, truyền thống của Việt Nam đều gặp khó khăn từ sau dịch Covid-19; sức chống chịu của doanh nghiệp bị bào mòn; lạm phát đối diện với nhiều yếu tố tiềm ẩn rủi ro.
“Những diễn biến này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp. Đây cũng là nguyên nhân chính khiến tăng trưởng tín dụng trong 6 tháng đầu năm của ngành Ngân hàng ở mức thấp, mặc dù NHNN và toàn ngành Ngân hàng đã nỗ lực triển khai nhiều giải pháp tăng cường khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp, người dân”, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú nhấn mạnh.
Thanh khoản dồi dào, các ngân hàng vẫn đang huy động tốt (mà huy động được thì rất cần cho vay ra) nhưng thực tế tín dụng đến nay vẫn tăng thấp. Làm thế nào để tín dụng tăng, đồng thời giữ được chất lượng tín dụng là bài toán khó. Vì vậy, Phó Thống đốc rất mong muốn các chuyên gia, nhà khoa học, các hiệp hội, ngành hàng cùng trao đổi để có đánh giá chung về lý do tăng trưởng tín dụng chưa đạt kỳ vọng trên tinh thần xây dựng, góp phần giúp NHNN có thêm những giải pháp điều hành phù hợp nhất, bám sát thực tiễn để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân hấp thụ tín dụng.
Giảm lãi suất không phải “cây đũa thần”
Chia sẻ tại hội thảo ở góc độ vĩ mô, TS. Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh nhận định: “trắc trở”, khó khăn đến cả từ trong và bên ngoài. Bất định, rủi ro từ bên ngoài được chuyên gia này nhắc tới qua nhấn mạnh về hai “cơn gió ngược”: Suy giảm kinh tế thế giới, đặc biệt là ở nhiều đối tác chính của Việt Nam; Các điều kiện tài chính tiền tệ chặt chẽ, lạm phát còn cao, khó kiểm soát ở nhiều quốc gia lớn dù có thể đã qua đỉnh. Bên trong, hai “vòng gió xoáy” là những biến động trên thị trường tài chính tiền tệ và khó khăn của nền kinh tế từ cuối năm 2022, đặc biệt là xuất khẩu suy giảm rất sâu trong 6 tháng đầu năm 2023. “Mặc dù đến nay những yếu tố như vậy đã có sự cải thiện nhưng để đạt được mục tiêu tăng trưởng 6,0 - 6,5% trong năm 2023 là rất thách thức”, TS. Thành nói, kỳ vọng các cơn gió ngược bên ngoài sẽ nhẹ đi trong nửa cuối năm, và quan trọng hơn là những nỗ lực bên trong phải được thúc đẩy mạnh hơn, trong đó các giải pháp liên quan đến giảm lãi suất, nới lỏng tiền tệ chỉ là một yếu tố và không nên coi đây là “cây đũa thần” có thể giải quyết tất cả.
Nhưng như số liệu thống kê cho thấy, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm chỉ có 6 mặt hàng tăng trưởng dương, còn lại hơn 30 mặt hàng tăng trưởng âm - phản ánh sự sụt giảm của cầu bên ngoài tác động đến Việt Nam như thế nào. Khi không có đơn hàng, sản xuất kinh doanh đương nhiên sẽ suy giảm, kéo theo đó là khó khăn việc làm của người lao động. Như vậy có thể thấy yếu tố thị trường đầu ra, thiếu đơn đặt hàng đang là nguyên nhân khách quan chính yếu khiến sức hấp thụ vốn giảm.
Theo ông Thân Đức Việt, Tổng giám đốc Tổng công ty May 10, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, cầu trong nước và thế giới yếu dẫn đến đơn hàng giảm sút, nên mặc dù ngành Ngân hàng đã 4 lần giảm lãi suất điều hành, nhưng doanh nghiệp cũng không có nhu cầu vay vốn. “Là đơn vị uy tín trong ngành, nằm trong chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu, May 10 được ngân hàng xếp vào khối doanh nghiệp lớn, uy tín và được tạo mọi điều kiện trong việc hỗ trợ tiếp cận tín dụng. Nhưng do nhu cầu thị trường bị thu hẹp, nên chúng tôi đã linh hoạt sử dụng nguồn vốn tự có, giảm thiểu tối đa vay vốn ngân hàng để cân đối chi phí tài chính. Cho đến khi nào, tình hình thị trường hồi phục trở lại, nhiều đơn hàng mở ra thì khi ấy doanh nghiệp mới tăng nhu cầu vay vốn ngân hàng”, ông Việt cho biết.
Ông Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội DNNVV Việt Nam cho biết, thời gian qua, NHNN không chỉ làm tốt nhiệm vụ giữ vững được sự ổn định tỷ giá, giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát và đảm bảo kinh tế vĩ mô, mà còn triển khai tốt nhiệm vụ rất quan trọng là giảm lãi suất điều hành tới 4 lần với mức giảm từ 0,5%/năm - 2%/năm, từ đó tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ người dân và doanh nghiệp tiếp cận chi phí vốn hợp lý. Nhưng với các DNNVV, kể cả hộ kinh doanh cá thể, chỉ khi sản xuất kinh doanh tốt thì họ mới vay. Do đó theo ông Thân, giảm lãi suất chỉ là một yếu tố cần, chứ không đảm bảo được là lãi suất giảm các ngân hàng sẽ cho vay ra được.
Cộng sinh và sẻ chia trách nhiệm
Những ý kiến như trên từ đại diện các doanh nghiệp, hiệp hội cho thấy, sức hấp thụ vốn không chỉ phụ thuộc vào lãi suất. Và bên cạnh những tác động khách quan từ thị trường, các ý kiến cũng cho rằng một số chính sách của Nhà nước vẫn chưa phát huy được tính đồng bộ, trong khi đó bản thân các doanh nghiệp cũng chưa chứng minh được năng lực hoàn vốn cũng như năng lực quản lý, kế hoạch sản xuất kinh doanh và minh bạch tài chính… “Để tăng khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp thì chính sách giảm lãi suất chỉ là một trong các giải pháp cần được tiếp tục triển khai. Về lâu dài, Hiệp hội nhận thấy, cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; hỗ trợ, nâng tầm DNNVV thông qua nhiều giải pháp như sớm sửa đổi Luật Hỗ trợ DNNVV; tập trung thực thi có hiệu quả nhóm giải pháp hỗ trợ DNNVV phát triển bền vững, phát triển chuỗi giá trị; cải tổ các Quỹ Bảo lãnh tín dụng và tăng cường vai trò của các cơ quan quản lý địa phương…”, ông Nguyễn Văn Thân đề xuất.
Cùng nhận định, ông Ketut Ariadi Kusuma, Trưởng nhóm Tài chính, Cạnh tranh và Sáng tạo của WB tại Việt Nam nhận định, mức độ hấp thụ vốn thấp, tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm như hiện nay là do sức cầu yếu, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái khiến hoạt động thương mại yếu kém và ảnh hưởng xấu đến sản xuất trong nước. Sản xuất trong nước chậm lại, đến lượt nó, lại gây ảnh hưởng xấu đến thu nhập và tiêu dùng. “Theo chúng tôi, nhu cầu yếu như vậy nên được giải quyết bằng các chính sách kích thích tổng cầu. Điều này đạt được tốt nhất thông qua các công cụ chính sách tài khóa mở rộng hơn. Và tôi tin rằng Việt Nam có dư địa tài khóa để làm như vậy”, chuyên gia này nhận định.
Ông Ketut Ariadi Kusuma cũng lưu ý, với môi trường sức cầu còn yếu, các giải pháp từ phía cung – thông qua chính sách tiền tệ (như lãi suất thấp hơn) có thể gặp phải giới hạn và có một vài nguy cơ như: Lãi suất trong nước giảm trong khi môi trường lãi suất toàn cầu cao, đồng nghĩa với chênh lệch lãi suất giữa Việt Nam và các nước sẽ cao hơn và điều này có thể gây áp lực cao hơn đối với tiền tệ (đồng Việt Nam); Thúc đẩy tăng trưởng tín dụng cao trong môi trường nhu cầu yếu có thể chuyển khiến tín dụng chảy sang các lĩnh vực hoặc hoạt động phi sản xuất, từ đó có thể dẫn đến tỷ lệ nợ xấu cao hơn, gây rủi ro bất ổn tài chính. “Do đó, thay vì tập trung vào tăng trưởng tín dụng, điều quan trọng hơn là tín dụng phải dành cho các lĩnh vực và hoạt động có năng suất cao. Vì lý do này, WB hiện đang tiến hành một nghiên cứu để xem xét hiệu quả phân bổ tín dụng ở Việt Nam. Trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, “bài tập này” có ý nghĩa quan trọng. Chúng tôi hy vọng sẽ xây dựng được mối quan hệ hợp tác hiệu quả và trao đổi dữ liệu với NHNN và các cơ quan chức năng/các bên liên quan khác để hỗ trợ đất nước đạt được mục tiêu này”, vị chuyên gia cho biết.
Tại phiên thảo luận bàn tròn trong khuôn khổ hội thảo, các chuyên gia và đại diện doanh nghiệp cũng nhấn mạnh yếu tố “cộng sinh” giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Theo đó, vấn đề cho vay hiện nay không thể bằng ý chí của một bên mà hai bên cùng phải lắng nghe, đứng ở vị trí của nhau và cùng nghiên cứu, giải quyết các khó khăn, vướng mắc để tìm ra hướng đi chung và điều này sẽ giúp người cho vay và người đi vay xích lại gần nhau hơn. Theo đó, tinh thần “vay có trách nhiệm, cho vay có trách nhiệm” cần được đề cao. Như PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia cho rằng, khi phát huy được tinh thần này, vấn đề tài sản đảm bảo cho khoản vay cũng sẽ không còn nặng nề nữa.
PGS.TS Nguyễn Thị Mùi - Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia
Doanh nghiệp khó khăn tứ phía
Tôi nghĩ rằng, doanh nghiệp hiện nay khó khăn tứ phía và có nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan dẫn đến cầu tín dụng đang hạn chế. Đầu tiên, rõ ràng sức cầu của nền kinh tế đang giảm, sản xuất trong một chừng mực nhất định giảm, lượng hàng tồn kho cao. Vừa qua, Ban Nghiên cứu Phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) đã khảo sát và cho thấy 60% doanh nghiệp cho rằng khó khăn đầu tiên là đơn hàng sụt giảm.
Trong khi trên thực tế ngân hàng nào cũng muốn cho vay, "mua" vốn về phải "bán" vốn ra. Tuy nhiên, hiện tại ngân hàng khá khó khăn trong việc tìm kiếm doanh nghiệp tốt, có khả năng trả nợ, xác định được đúng dòng tiền để mở rộng tín dụng. Bên cạnh đó, mặc dù NHNN đã 4 lần hạ lãi suất điều hành, tạo điều kiện giảm mặt bằng lãi suất cho vay. Mặt khác, bản thân NHTM cũng là một doanh nghiệp, huy động từ các tổ chức, cá nhân với lãi suất nhất định để cho vay lại. Vì vậy việc giảm lãi suất phải có thời gian, lộ trình.
Song về phía doanh nghiệp cũng muốn thủ tục vay phải đơn giản, không cần yêu cầu tài sản đảm bảo, nhưng điều này phải dựa trên nguyên tắc. Có thể thấy, nếu cả hai bên vay và cho vay đều có trách nhiệm thì sẽ không đặt nặng vấn đề tài sản đảm bảo. Tuy nhiên, nếu bên cho vay có trách nhiệm mà bên vay không có trách nhiệm với khoản vay thì ảnh hưởng đến niềm tin đối với ngân hàng. Khi niềm tin, uy tín chưa đủ, khả năng trả nợ cả gốc lẫn lãi suy giảm thì tài sản đảm bảo vẫn là việc phải được đặt ra.
Bà Trịnh Thị Hương - Phó Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Đưa cung - cầu tín dụng xích lại gần nhau
Kể từ khi đại dịch Covid-19 xuất hiện, Chính phủ đã luôn nêu cao tinh thần đồng hành cùng doanh nghiệp, về phía Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã tham mưu cho Chính phủ ban hành nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, phối hợp chặt chẽ cùng các bộ ngành trong đó có NHNN. Tuy nhiên, thực tế quá trình thực hiện cũng gặp nhiều khó khăn. Đơn cử như về Quỹ Phát triển DNNVV, thời gian qua, quỹ có rất nhiều nỗ lực để đưa ra mô hình hoạt động phù hợp, tạo điều kiện cung cấp nguồn vốn ưu đãi cho doanh nghiệp, hiện quỹ đang kết hợp cùng các NHTM cho vay qua hình thức uỷ thác, tuy nhiên thực tế chưa nhiều doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn này. Về phía Cục Phát triển doanh nghiệp đã có những biện pháp tác động cả về cung và cầu. Cụ thể, hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực quản trị tài chính, dòng tiền, thiết kế các sổ tay quản trị cho doanh nghiệp, tổ chức các sự kiện kết nối, tư vấn 1-1 với doanh nghiệp giúp họ vay vốn thành công với NHTM. Về phía cầu, Cục đang phối hợp với 12 ngân hàng, quỹ đầu tư để đào tạo cán bộ tín dụng, cán bộ thiết kế sản phẩm, thông qua việc mời các chuyên gia đầu ngành về các lĩnh vực mà Việt Nam có tiềm năng, giúp cán bộ tín dụng hiểu hơn về các ngành, ngân hàng hiểu hơn về doanh nghiệp và thiết kế sản phẩm phù hợp.
TS. Nguyễn Đình Cung - Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM)
Chính sách tiền tệ đã quá sức, cần đẩy mạnh chính sách tài khóa
Chưa bao giờ kinh tế Việt Nam ảm đạm như hiện nay. Song trong thời điểm này, chính sách tiền tệ không phải là giải pháp tăng hấp thụ vốn cho nền kinh tế. Chúng ta hay nói đến kết hợp chính sách tiền tệ và tài khóa, hài hòa ổn định kinh tế vĩ mô. Nhưng giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đang có sự lệch pha, trong khi ngành Ngân hàng đang nỗ lực giảm lãi suất giúp doanh nghiệp tiết giảm chi phí, thì chính sách tài khóa triển khai rất chậm, thậm chí là còn tăng thu ngân sách. Lúc này đáng lẽ cần nhấn mạnh hơn chính sách tài khoá nhưng chúng ta lại đang tập trung quá nhiều đến chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ đã quá sức rồi. Do đó, tôi cho rằng, cần xem xét lại cách tiếp cận chính sách.
Theo tôi, điều đầu tiên và cũng rất quan trọng đó là cần phải sử dụng tốt chính sách tài khóa, tiếp đến là cải thiện môi trường kinh doanh, sau đó mới đến chính sách tiền tệ. Tôi lưu ý thêm, một trong những giải pháp là không nên đề cập tăng thu ngân sách. Vì trong nền kinh tế ảm đạm như vậy không thể tăng thu, đẩy doanh nghiệp khó chồng khó.
Ông Nguyễn Quốc Hùng - Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam
Doanh nghiệp “chung thuỷ” sẽ tiếp cận tín dụng thuận lợi hơn
Trên thực tế, kinh tế khó khăn, nguồn lực của doanh nghiệp bị cạn kiệt dẫn tới việc các doanh nghiệp không đủ điều kiện để vay vốn ngân hàng. Về phía ngân hàng cũng không thể tự ý hạ tiêu chuẩn, giảm các quy định, điều kiện cho vay mà vẫn phải theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quản trị rủi ro, an toàn hệ thống. Đặc biệt, trong bối cảnh thực hiện quyết liệt các giải pháp cơ cấu lại hoạt động ngân hàng, các TCTD đang ngày càng đẩy mạnh áp dụng các chuẩn mực quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế, đòi hỏi ngày càng cao tính minh bạch, do đó không thể thực hiện các giải pháp về hạ chuẩn điều kiện cấp tín dụng.
Đối với các DNNVV là đối tượng được ưu tiên áp dụng chính sách trần lãi suất cho vay ngắn hạn, nhưng để được tiếp cận chính sách ưu tiên theo quy định, DNNVV phải đáp ứng được điều kiện về tình hình tài chính minh bạch, lành mạnh. Tuy nhiên, hầu hết DNNVV hiện nay không đáp ứng được các điều kiện trên. Phần lớn DNNVV có quy mô nhỏ, năng lực tài chính, trình độ quản trị hạn chế, thiếu phương án kinh doanh khả thi, số liệu tài chính thiếu minh bạch, chính xác, chứng từ kế toán không đáp ứng các chuẩn mực theo quy định nên ngân hàng khó xem xét cấp tín dụng... Thực tế, tất cả các ngân hàng đều đang có những giải pháp hết sức hữu hiệu để hỗ trợ doanh nghiệp, bởi ngân hàng và doanh nghiệp đang đứng chung thuyền. Ngược lại về phía doanh nghiệp cũng phải “chung thuỷ”, duy trì mối quan hệ thân thiết với một ngân hàng, nếu không, không thể hy vọng ngân hàng cho vay không có tài sản đảm bảo.
Trong bối cảnh cầu bên ngoài suy giảm, các doanh nghiệp cần coi trọng thị trường trong nước, tập trung kích cầu trong nước để bù đắp thiếu hụt cho các đơn hàng xuất khẩu, cũng như xoay vòng vốn nhanh. Bên cạnh đó, cần có sự vào quyết liệt từ phía các bộ, ngành và địa phương để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp hiện nay. Đồng thời, cần nâng cao hiệu quả của Luật Hỗ trợ DNNVV và hoạt động của các Quỹ Bảo lãnh tín dụng DNNVV và Quỹ Phát triển DNNVV.
Ông Trần Long - Phó Tổng giám đốc BIDV
Chia sẻ lợi ích, hài hoà rủi ro
Các DNNVV đa phần là những doanh nghiệp có sở hữu cá nhân là chính, năng lực quản trị chưa thực sự tốt. Qua quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, tôi nhận thấy báo cáo tài chính của DNNVV không đồng nhất. Hơn nữa, một doanh nghiệp có thể vay ở 5- 7 TCTD khiến ngân hàng hơi “nản lòng” trong việc thực hiện các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, bởi lẽ ngân hàng khó khăn trong việc đánh giá dòng tiền của doanh nghiệp. Vì vậy, ngân hàng và doanh nghiệp phải đứng ở góc độ cùng chia sẻ lợi ích, hài hoà rủi ro thì mới đạt được mục tiêu cuối cùng.
Đối với BIDV, là NHTM Nhà nước, luôn tiên phong trong việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Chính phủ, NHNN Việt Nam, từ đầu năm tới nay, BIDV đã thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đã được ban hành như cho vay, hỗ trợ theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP của Chính phủ. Đến nay dư nợ hỗ trợ lãi suất tại BIDV là 5.000 tỷ đồng, số tiền hỗ trợ là gần 70 tỷ đồng; với gói tín dụng 120.000 tỷ đồng cho nhà ở xã hội, ngân hàng đã tiếp cận 10 dự án và đến nay đã cấp tín dụng cho 3 dự án...
Trong 6 tháng đầu năm, BIDV đã bốn lần giảm lãi suất cho vay. BIDV cũng đã ban hành 25 gói tín dụng với tổng quy mô lên tới 450.000 tỷ đồng, lãi suất thấp hơn so với lãi suất thị trường từ 0,5 – 2%/năm tuỳ theo từng đối tượng. Không những cung cấp giải pháp tài chính, BIDV còn hỗ trợ nâng cao năng lực tài chính cho các doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV, tạo không gian để các doanh nghiệp có thể gặp gỡ, trao đổi, giúp đỡ nhau về đơn hàng, thị trường, tổ chức nhiều hội thảo nâng cao năng lực, kỹ năng quản trị của doanh nghiệp…
Bà Phùng Thị Bình - Phó Tổng giám đốc Agribank
Ngân hàng chuẩn hóa quy trình, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp vay vốn
Thời gian vừa qua, Agribank đã tăng cường các biện pháp nhằm tăng cường sức hấp thụ vốn cho doanh nghiệp. Theo đó, Agribank triển khai các Chương trình của Chính phủ, NHNN như hỗ trợ lãi suất theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP của Chính phủ; Cơ cấu lại thời hạn trả nợ giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 02 của NHNN. Dư nợ của các khoản vay được cơ cấu là 20.187 tỷ đồng cho 474 khách hàng doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Agribank đã có 7 lần điều chỉnh giảm lãi suất cho vay. Lãi suất các khoản cho vay thông thường phát sinh mới giảm từ 2-4%/năm so với đầu năm. Điều chỉnh giảm lãi suất tối đa 3% đối với khách hàng là pháp nhân vay vốn với mục đích kinh doanh bất động sản gặp khó khăn. Điều chỉnh giảm tối thiểu 0,5%/năm lãi suất cho các khách hàng hiện có dư nợ trung dài hạn bằng VND tại Agribank. Đồng thời, ngân hàng cũng triển khai các Chương trình tín dụng ưu đãi với quy mô lớn như chương trình cho vay ưu đãi dành cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu, quy mô 25.000 tỷ đồng, kéo dài đến hết năm 2023; dự kiến triển khai Chương trình cho vay ưu đãi dành cho khách hàng DNNVV, quy mô 20.000 tỷ đồng từ tháng 8/2023 đến tháng 4/2024.
Trong thời gian tới, Agribank tiếp tục triển khai các Chương trình hỗ trợ tín dụng của Chính phủ, NHNN. Trong đó, ngân hàng sẽ tiếp tục điều hành lãi suất linh hoạt, nỗ lực tiết giảm chi phí, tiếp tục giảm lãi suất đầu vào để giảm lãi suất cho vay. Ngân hàng đẩy mạnh các chương trình tín dụng ưu đãi lãi suất dành cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu quy mô 25.000 tỷ đồng, doanh nghiệp vừa và nhỏ quy mô 20.000 tỷ đồng; đa dạng hóa sản phẩm tín dụng phù hợp với các phân khúc khách hàng, theo từng ngành nghề, lĩnh vực và theo từng địa bàn. Để tạo thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp tiếp cận vốn, ngân hàng chuẩn hóa quy trình, giảm thiểu thủ tục và thời gian xét duyệt khoản vay. Song song với đó, ngân hàng đẩy mạnh các kênh truyền thông để các thông tin về các chương trình cho vay ưu đãi đến được với rộng khắp doanh nghiệp.
Ông Vũ Công Huân - Giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn HDC
Ngân hàng rất tích cực hỗ trợ doanh nghiệp
6 tháng đầu năm 2023, doanh nghiệp xuất nhập khẩu thuỷ sản và phân phối trong nước, mảng xuất khẩu thực sự khó khăn, nhu cầu giảm 25-27% về đơn hàng, mặc dù giá nguyên vật liệu hiện tại giảm 30-35% so với cùng kỳ năm ngoái, khó khăn lớn nhất của DNNVV là nguồn vốn để bán được hàng, với đơn hàng hiện tại, khi cung cấp trong nước mới chỉ đạt 35% đơn hàng khách đặt, khó khăn đầu tiên về vốn, có 3 ngân hàng cấp hạn mức cho chúng tôi khoảng 80 tỷ đồng, trong đó có khoảng 10 tỷ đồng ngân hàng cho vay tín chấp. Ngân hàng rất tích cực hỗ trợ doanh nghiệp khi sẵn sàng cho doanh nghiệp vay không có tài sản đảm bảo. Ngân hàng cho vay theo khoản phải thu khách hàng tức là cho vay theo hợp đồng, hóa đơn.
Khi ngân hàng cho vay theo hợp đồng, hóa đơn giải quyết ngay cho doanh nghiệp bài toán vốn lưu động phục vụ cho hoạt động, nắm bắt cơ hội kinh doanh. Thủ tục cho vay tín ngân hàng cũng đơn giản do doanh nghiệp có báo cáo tài chính minh bạch. So với giai đoạn trước doanh nghiệp đã được hỗ trợ giảm lãi suất từ 1-2%/năm. Với biên lợi nhuận của ngành thủy sản thì mức lãi suất hiện tại của ngân hàng doanh nghiệp thấy phù hợp và hoàn toàn chấp nhận được.
Theo Thời báo Ngân hàng.