Nhiều ý kiến cho rằng, việc duy trì công cụ hạn mức tín dụng trong bối cảnh hiện nay là phù hợp và cần thiết.
Tín dụng đóng góp tích cực tăng trưởng kinh tế
Phát biểu tại Họp báo Chính phủ tháng 10, Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà cho biết, mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm nay là 14%, cao hơn mức của 2 năm 2020-2021. Thực tế, tín dụng đã tăng ngay từ những tháng đầu năm và tính đến nay, tín dụng tiếp tục ở mức cao so với cùng kỳ của các năm trước. Cụ thể, tín dụng đến ngày 25/10 tăng 11,5% so với cuối năm 2021; Và tăng 17% so với cùng kỳ năm ngoái - là mức cao so với cùng kỳ nhiều năm trước đây.
Theo đánh giá của một thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, từ đầu năm tới nay, công tác điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) đã phối hợp nhịp nhàng với các chính sách khác, tạo điều kiện phục hồi kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm soát lạm phát năm nay ở dưới mức 4% và đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, theo chuyên gia này, điều quan trọng nhất đối với điều hành CSTT trong 2 tháng cuối năm và năm tới là không để mất đà tăng trưởng. Để làm được điều này, NHNN có thể linh hoạt đối với room tín dụng.
Về vấn đề này, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cũng thừa nhận, áp lực lên vốn tín dụng ngân hàng tăng cao trong bối cảnh nền kinh tế cần vốn để phục hồi, nhưng các nguồn vốn khác diễn biến không thuận lợi. Cụ thể, thị trường vốn trong đó có thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán đang tồn tại một số vấn đề và chưa phát triển tương xứng với vai trò cung cấp vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế; đăng ký vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài so với cùng kỳ năm 2021 và kiều hối có xu hướng giảm.
Ảnh minh họa
Song, xét trên tổng thể, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh, đặc biệt từ năm 2020, tiềm ẩn rủi ro đối với hệ thống tài chính. Các tổ chức quốc tế như IMF, WB, tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc gia đều cảnh báo về tỷ lệ này của Việt Nam. Theo WB, Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ tín dụng/GDP cao nhất trên thế giới. Moody’s cảnh báo tỷ lệ tín dụng trong nước/GDP và tỷ lệ tổng tài sản của ngân hàng trong nước/GDP đã tăng lên 124% và 17% - là mức cao nhất các quốc gia xếp hạng Ba và Baa, cảnh báo về rủi ro bất ổn vĩ mô. Giới chuyên gia cũng khuyến cáo, với áp lực lạm phát như hiện nay, NHNN phải thận trọng với cung tiền và cần kiên định với định hướng tăng trưởng tín dụng cả năm ở mức 14%. “Nếu nới lỏng hơn sẽ gây áp lực cả lên tỷ giá lẫn lãi suất. Quan trọng bây giờ không phải là nới room mà phân bổ dòng vốn sao cho hiệu quả nhất”, vị chuyên gia này nhấn mạnh.
Trong phiên thảo luận của Quốc hội về kinh tế, xã hội cuối tuần qua, một lần nữa Thống đốc NHNN khẳng định sự đúng đắn của việc không nới room tín dụng. Bởi nếu NHNN nới room tín dụng thì thanh khoản toàn hệ thống sẽ rất căng thẳng, ảnh hưởng đến khả năng chi trả của các tổ chức tín dụng. Do vậy về điều hành tín dụng thời gian tới, quan điểm của NHNN vẫn kiên định với mục tiêu tăng trưởng tín dụng 14% trong năm nay trước các áp lực lớn về lạm phát, tỷ giá và lãi suất.
Chưa thể bỏ room tín dụng
Không chỉ việc nới room tín dụng, mà vấn đề gỡ “barie” tín dụng cũng được nhắc đến trong thời gian qua. Cũng có ý kiến cho rằng, sang những năm tiếp theo NHNN nghiên cứu dần bỏ hạn mức tín dụng vì hạn mức tín dụng không có mối liên hệ với lạm phát, không tác động đến lạm phát; việc phân bổ room tín dụng chưa đảm bảo tính khách quan, cơ chế xin - cho… Song nhiều ý kiến cho rằng, việc duy trì công cụ hạn mức tín dụng trong bối cảnh hiện nay là phù hợp và cần thiết.
Một chuyên gia làm việc lâu năm trong ngành Ngân hàng chia sẻ, việc NHNN phải duy trì chính sách cấp hạn mức tín dụng từ năm 2011 cũng là việc chẳng đặng đừng. Thực tế, các NHTW hạn chế sử dụng các công cụ hành chính. Nhưng mỗi một quốc gia phải lựa chọn công cụ điều hành dựa trên điều kiện thực tế của quốc gia mình cho phù hợp. Tại Việt Nam, bài học kinh nghiệm của giai đoạn tăng trưởng tín dụng nóng, thiếu kiểm soát đã để lại hậu quả hết sức nặng nề, khi việc xử lý nợ xấu, tái cơ cấu các TCTD vẫn còn tiếp tục kéo dài, phức tạp, đòi hỏi nhiều nguồn lực xử lý.
Đến thời điểm này, tuy hệ thống ngân hàng đã có bước cải tổ mạnh mẽ, được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm nâng hạng tín nhiệm, nhưng sự phát triển đó vẫn chưa đồng đều, tiềm ẩn rủi ro cho hệ thống ngân hàng nói riêng, toàn nền kinh tế nói chung. Hiện mặc dù đã có nhiều ngân hàng áp dụng tiêu chuẩn Basel II, thậm chí có ngân hàng áp dụng một số quy định của Basel III; nhưng cũng có ngân hàng chưa áp dụng được chuẩn Basel II. Vì vậy, “Trong 3 năm trở lại đây, nhu cầu tăng trưởng tín dụng của các NHTM đều trên 20%. Nếu để tăng trưởng như kỳ vọng của ngân hàng thì rất dễ bị vượt qua khả năng quản trị của họ, mặt khác tạo áp lực lớn đến lạm phát và mặt bằng lãi suất. Theo đó lại tác động đến quá trình phục hồi của nền kinh tế”, một chuyên gia nhìn nhận.
Bên cạnh đó, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hệ thống ngân hàng chủ yếu cung cấp vốn ngắn hạn cho nền kinh tế, còn nguồn vốn trung - dài hạn sẽ do thị trường vốn đảm nhiệm. Tuy nhiên ở Việt Nam, thị trường vốn, thị trường chứng khoán chưa phát triển, thể hiện đúng vai trò, nên việc cân đối vốn cho nền kinh tế, bao gồm cả vốn trung - dài hạn vẫn dựa nhiều vào hệ thống ngân hàng. Điều đó tiềm ẩn nhiều rủi ro cho hệ thống ngân hàng khi mà nguồn vốn huy động của các ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn.
Chung quan điểm, TS. Trương Văn Phước - nguyên Quyền Chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính quốc gia cho rằng trước mắt việc duy trì room tín dụng là rất quan trọng. Bởi ở Việt Nam, thị trường vốn tuy phát triển nhưng chưa tương xứng, còn nhiều bất cập; thị trường tiền tệ thì không chỉ lo toan dòng vốn ngắn hạn mà còn đi sâu vào việc lo toan dòng vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế. Vì vậy, nếu không kiểm soát để dòng vốn bơm ra rất lớn thì nguy cơ chúng ta phải đối mặt với bất ổn như đã từng xảy ra trong giai đoạn 2007 - 2009 và trước đấy nữa như lạm phát cao, lãi suất tăng, hoạt động sản xuất doanh nghiệp đối mặt vô vàn khó khăn...
Còn ở góc độ vi mô, trong vòng hơn 10 năm qua, các ngân hàng Việt Nam đã tiếp cận chuẩn mực Basel II, III, hệ số CAR cao để làm sao có gối đệm vững chắc đảm bảo hoạt động an toàn hơn trước biến động. Tuy nhiên phải nói rằng, hệ thống ngân hàng đang ở trong giai đoạn tái cấu trúc từ năm 2011 đến nay với những bước đi cơ bản, chưa thực sự đầy đủ, vững chắc. Thời điểm này, theo TS. Phước nếu bỏ room tín dụng, mà phương thức quản lý mới chưa được chuẩn bị đầy đủ: Trong khi cái cũ tuy có cả mặt được và chưa được, nhưng nói cho công tâm thì cái được vẫn lớn hơn nhiều. Đặc biệt là lúc này, nếu bỏ room tín dụng sẽ gây nên những tác hại và rủi ro rất lớn cho nền kinh tế đó làm sao có thể quản lý được dòng tiền ra khỏi thị trường. Dù rằng, hệ số CAR là thước đo và coi như phanh để giảm dòng vốn đó. Nhưng chiếc phanh trên cỗ xe chạy chưa được đồng đều cũng không ổn. Nên việc duy trì room là cần thiết.
“Theo tôi nên duy trì trần tăng trưởng tín dụng đến một lúc nào đó khi kinh tế vĩ mô khá ổn định. Cùng việc trong thời gian này hệ thống ngân hàng tiếp tục củng cố nguyên tắc quản trị theo chuẩn mực quốc tế, thì khi có cái mới xuất hiện với đầy đủ các công năng của nó để thay cái cũ, tiếp tục quản trị nền tiền tệ an toàn và hiệu quả”, TS. Phước chia sẻ thêm quan điểm.
Theo Thời báo Ngân hàng
12.11.2024