23.07.2008 14:29

Một số điểm mới của Luật ban hành Văn bản Quy phạm pháp luật năm 2008

Nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế và vướng mắc phát sinh trong thực tiễn thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả của công tác xây dựng ban hành văn bản QPPL, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước;

Ngày 03/6/2008, Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ ba đã thông qua Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) mới (dưới đây gọi là Luật ban hành VBQPPL năm 2008), thay thế Luật ban hành văn bản QPPL năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản QPPL năm 2002 (gọi tắt là Luật ban hành văn bản QPPL cũ). Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009.

Chúng tôi xin giới thiệu cùng bạn đọc một số điểm mới của Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008 như sau:

1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật:

Theo quy định của Luật ban hành văn bản QPPL cũ, hệ thống văn bản QPPL của nước ta hiện nay có tới hơn 20 loại văn bản QPPL khác nhau, do nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành (Hiến pháp, Luật, Nghị quyết, Pháp lệnh, Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, thông tư…. ). Để khắc phục tình trạng hệ thống văn bản QPPL phức tạp, quá nhiều loại văn bản, gây khó khăn khi theo dõi, xác định thứ bậc hiệu lực của các loại văn bản, hệ thống văn bản QPPL được quy định trong Luật ban hành VBQPPL năm 2008 được rút gọn theo hướng (i) Giữ nguyên hình thức VBQPPL của Quốc hội, UBTVQH, Chủ tịch nước và (ii) Các VBQPPL của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án TANDTC thì chỉ ban hành một loại văn bản (thay vì mỗi cơ quan ban hành hai hoặc ba loại văn bản QPPL như Luật ban hành VBQPPL cũ).

Như vậy, hệ thống VBQPPL được quy định tại Điều 2 Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008 bao gồm:
-          Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
-          Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
-          Lệnh, quyết định Chủ tịch nước;
-          Nghị định của Chính phủ;
-          Quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
-          Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Thông  tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;
-          Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
-          Thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ;
-          Quyết định của Tổng Kiểm tóan Nhà nước;
-          Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội;
-          Thông tư liên tịch giữa Chánh án TANDTC với Viện trưởng VKSNDTC; giữa các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ;
-          Văn bản của Hội đồng nhân dân; Ủy ban nhân dân.

Tuy nhiên, để phù hợp với tình hình thực tiễn, kể từ ngày 01/01/2009 (ngày có hiệu lực của Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008), thì các văn bản QPPL đã được ban hành dưới các hình thức bị lược bỏ (nghị quyết của Chính phủ; chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; quyết định, chỉ thị của Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSND, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; văn bản liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội) vẫn tiếp tục có hiệu lực cho đến khi bị bãi bỏ, hủy bỏ hoặc được thay thế bằng VBQPPL khác.

2. Các nguyên tắc xây dựng, ban hành VBQPPL:

Luật ban hành VBQPPL năm 2008 đã bổ sung một điều (Điều 3) quy định cụ thể năm nguyên tắc cần phải bảo đảm khi xây dựng, ban hành VBQPPL, đó là:

(i) Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của VBQPPL trong hệ thống pháp luật.
(ii) Tuân thủ thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản QPPL.
(iii) Bảo đảm tính công khai trong quá trình xây dựng, ban hành VBQPPL trừ trường hợp văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước; bảo đảm tính minh bạch trong các quy định của văn bản quy phạm pháp luật.
          (iv) Bảo đảm tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật.
          (v) Không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên.


3. Văn bản quy định chi tiết:

Luật ban hành VBQPPL năm 2008 (Điều 8) có quy định những nội dung mới về văn bản quy định chi tiết, cụ thể:

-          Văn bản QPPL phải được quy định cụ thể để khi văn bản đó có hiệu lực thì thi hành được ngay.
-          Văn bản quy định chi tiết phải quy định cụ thể, không lặp lại quy định của văn bản được quy định chi tiết (chỉ hướng dẫn những nội dung cần quy định chi tiết);
-          Cơ quan được giao quy định chi tiết về nhiều nội dung của một văn bản QPPL thì ban hành một văn bản để quy định chi tiết các nội dung đó, trừ trường hợp cần phải quy định trong các văn bản khác nhau;
-          Các nội dung cần được quy định chi tiết được giới hạn cụ thể (chỉ gồm những nội dung liên quan đến quy trình, quy chuẩn kỹ thuật, những vấn đề chưa có tính ổn định cao) và cơ quan đã được giao ban hành văn bản quy định chi tiết phải ban hành văn bản, không được phép ủy quyền tiếp cho cơ quan khác ban hành;
-          Văn bản quy định chi tiết phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản hoặc điều, khỏan, điểm được quy định chi tiết.

4. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ, hợp nhất văn bản QPPL (Điều 9, Điều 92):

- Luật ban hành VBQPPL năm 2008 (Điều 9) áp dụng kỹ thuật: “một văn bản sửa nhiều văn bản”: tức là chỉ cần ban hành một văn bản QPPL để đồng thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ tất cả các nội dung trong nhiều VBQPPL (do cùng một cơ quan ban hành).

- Văn bản được hợp nhất (Điều 92): Văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều của văn bản QPPL được hợp nhất về mặt kỹ thuật với văn bản được sửa đổi, bổ sung. Việc hợp nhất văn bản QPPL do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.

5. Hiệu lực của văn bản QPPL:

Điều 78 Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008 là một điểm mới rất quan trọng khi quy định về thời điểm có hiệu lực của văn bản QPPL và đăng Công báo:

- Nguyên tắc xác định thời điểm có hiệu lực của VBQPPL:
+ Thời điểm có hiệu lực của văn bản QPPL được quy định ngay trong văn bản, nhưng không sớm hơn bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành.
+ Trường hợp văn bản QPPL quy định các biện pháp thi hành trong tình trạng khẩn cấp, văn bản được ban hành để kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng, chống thiên tai, dịch bệnh thì có thể có hiệu lực kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành nhưng phải được đăng ngay trên Trang thông tin điện tử của cơ quan ban hành và phải được đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng; đăng Công báo chậm nhất sau hai ngày làm việc, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành.

- Đăng Công báo của VBQPPL:
+ Văn bản QPPL phải được đăng Công báo;
+ Văn bản QPPL không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành, trừ trường hợp văn bản có nội dung bí mật nhà nước và các trường hợp ban hành văn bản trong trường hợp đột xuất, văn bản kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng chống thiên tai, dịch bệnh.
+ Trong thời hạn chậm nhất là hai ngày làm việc, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành, cơ quan ban hành văn bản QPPL phải gửi văn bản đến cơ quan Công báo để đăng Công báo;
+ Cơ quan Công báo có trách nhiệm đăng tòan văn bản QPPL trên Công báo chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản;
+ Văn bản QPPL đăng trên Công báo là văn bản chính thức và có giá trị như văn bản gốc.

6. Đăng tải và đưa tin văn bản QPPL (Điều 84):

Trừ các văn bản thuộc bí mật nhà nước, văn bản QPPL phải được:
+ Đăng tải toàn văn trên Trang thông tin điện tử của cơ quan ban hành văn bản chậm nhất là hai ngày, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành;
+ Phải đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng.

7. Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật:

- Việc pháp điển QPPL tạo điều kiện thuận lợi cho người dân dễ tra cứu, dễ thực hiện pháp luật; giúp cán bộ công chức trong thực thi nhiệm vụ áp dụng được chính xác các quy định của pháp luật; kịp thời phát hiện được các quy định của pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn để đề xuất tiến hành sửa đổi, bổ sung bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

- Yêu cầu của việc pháp điển: QPPL phải được rà soát, tập hợp, sắp xếp thành bộ pháp điển theo từng chủ đề. Việc pháp điển hệ thống QPPL thực hiện theo quy định của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

8. Về quy trình soạn thảo, ban hành văn bản QPPL của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội:
8.1 Lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh:

* Đề nghị, kiến nghị xây dựng  luật, pháp lệnh (Điều 23):
- Cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội có quyền trình dự án luật gửi đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh; đại biểu Quốc hội gửi kiến nghị về luật, pháp lệnh đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
- Nội dung của đề nghị, kiến nghị:
+ Sự cần thiết ban hành văn bản;
+ Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản;
+ Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính của văn bản;
+ Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản;
+ Báo cáo đánh giá tác động sơ bộ của văn bản;
+ Thời gian dự kiến đề nghị Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét thông qua.
- Chính phủ lập đề nghị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh:
+ Chính phủ lập đề nghị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh về những vấn đề thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
+ Bộ Tư pháp có trách nhiệm giúp Chính phủ lập đề nghị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh trên cơ sở đề xuất của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
+ Chính phủ xem xét, thảo luận về đề nghị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh theo trình tự: (i) Đại diện Bộ Tư pháp trình bày dự thảo đề nghị chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; (ii) Đại diện cơ quan, tổ chức được mời tham dự phát biểu ý kiến; (iii) Chính phủ thảo luận; (iv) Chính phủ biểu quyết thông qua đề nghị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
** Thời hạn gửi đề nghị (Điều 24):
+ Thời hạn gửi đề nghị chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm: chậm nhất vào ngày 01/3 của năm trước (quy định cũ là ngày 01/7 của năm trước);
+ Thời hạn gửi đề nghị chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội: Chậm nhất vào ngày 01/8 của năm đầu tiên của nhiệm kỳ Quốc hội.

8.2 Soạn thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết:
Ban soạn thảo:
- Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập Ban soạn thảo và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo đối với:
+ Dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết có nội dung liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực;
+ Dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội do Uỷ ban thường vụ Quốc hội trình;
+ Dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do đại biểu Quốc hội trình. Thành lập Ban soạn thảo do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của đại biểu Quốc hội.
- Chính phủ giao một bộ hoặc một cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo dự án, dự thảo do Chính phủ trình. Cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm thành lập Ban soạn thảo.
- Trường hợp dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do cơ quan khác, tổ chức trình thì cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm thành lập Ban soạn thảo và chủ trì  soạn thảo.
Thành phần Ban soạn thảo: có ít nhất là chín người, gồm:
+ Trưởng ban soạn thảo là người đứng đầu cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo;
+ Thành viên Ban soạn thảo là đại diện lãnh đạo cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo, cơ quan, tổ chức hữu quan, các chuyên gia, nhà khoa học;
+ Đối với Ban soạn thảo dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình thì thành phần Ban soạn thảo còn có các thành viên là đại diện lãnh đạo Bộ Tư pháp và Văn phòng Chính phủ.

9.
Xây dựng, ban hành văn bản QPPL theo trình tự rút gọn (Chương VIII):

- Các trường hợp xây dựng, ban hành văn bản QPPL theo trình tự rút gọn:
+ Trong trường hợp khẩn cấp;
+ Cần sửa đổi ngay cho phù hợp với văn bản QPPL mới được ban hành.
- Hình thức văn bản QPPL được xây dựng, ban hành theo trình tự rút gọn:
+ Luật, nghị quyết của Quốc hội;
+ Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
+ Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
+ Nghị định của Chính phủ;
+ Quyết định của Thủ tướng Chính phủ có thể được thực hiện theo trình tự, thủ tục rút gọn.
- Thẩm quyền quyết định việc xây dựng, ban hành VBQPPL theo trình tự rút gọn:
+ Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định việc xây dựng, ban hành pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội theo trình tự, thủ tục rút gọn;
+ Uỷ ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội việc xây dựng, ban hành luật, nghị quyết của Quốc hội theo trình tự, thủ tục rút gọn.
+ Chủ tịch nước quyết định việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng, ban hành lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
+ Thủ tướng Chính phủ quyết định việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng, ban hành: Nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
- Việc xây dựng, ban hành VBQPPL theo trình tự rút gọn:
+ Cơ quan chủ trì soạn thảo không nhất thiết phải thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập để soạn thảo mà có thể trực tiếp tổ chức việc soạn thảo;
+ Cơ quan chủ trì soạn thảo có thể tổ chức lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về dự thảo văn bản;
+ Cơ quan thẩm định có trách nhiệm thẩm định dự thảo văn bản ngay sau khi nhận được hồ sơ thẩm định; cơ quan thẩm tra có trách nhiệm thẩm tra dự thảo văn bản ngay sau khi nhận được hồ sơ thẩm tra.
- Hồ sơ trình dự án, dự thảo VBQPPL theo trình tự rút gọn:
+ Tờ trình về dự án, dự thảo;
+ Dự thảo văn bản;
+ Báo cáo thẩm định đối với dự thảo nghị định của Chính phủ, dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
+ Báo cáo thẩm tra đối với dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
- Việc xem xét, thông qua dự án, dự thảo VBQPPL theo trình tự rút gọn:
+ Quốc hội xem xét, thông qua dự án, dự thảo văn bản tại một kỳ họp;
+ Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự án, dự thảo văn bản tại một phiên họp;
+ Chính phủ xem xét, thông qua dự thảo văn bản tại một phiên họp.

10. Và nhiều điểm mới khác liên quan đến việc thẩm định dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình (Điều 36); Chỉnh lý, hoàn thiện dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trước khi trình Chính phủ (Điều 37); Chính phủ thảo luận, xem xét quyết định việc trình dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết (Điều 39); Trình tự xem xét, thông qua dự thảo luật, nghị quyết tại một kỳ họp của Quốc hội (Điều 52);  Trình tự xem xét, thông qua dự thảo, nghị quyết tại hai kỳ họp của Quốc hội (Điều 53); Soạn thảo nghị định của Chính phủ (Từ Điều 59 đến Điều 66)…

Nhìn chung, việc xây dựng, ban hành Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008 là một sự đổi mới căn bản về quan điểm, kỹ thuật lập pháp. Đây là một văn bản luật quan trọng nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng, ban hành văn bản QPPL, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị và các cam kết của nước ta khi gia nhập WTO.
Theo Ngân hàng Nhà nước

Các tin liên quan