Ngày 19/7/2017, trên cơ sở đề nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, một số Tòa án, tổ chức tín dụng (TCTD) và Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), Tòa án nhân dân tối cao đã có văn bản số 152/TANDTC-PC gửi Tòa án nhân dân cấp cao, các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số nội dung liên quan đến việc xử lý vướng mắc khi giải quyết tranh chấp nhằm xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ) của các hợp đồng tín dụng.
Hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) tại văn bản số 152/TANDTC-PC đã đề cập đến nhiều vướng mắc trong hoạt động xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng, cụ thể như sau:
1. Về xác định chủ thể trong quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình sử dụng đất
Theo quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005, việc xác định chủ thể của quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình sử dụng đất được thực hiện theo quy định của Luật đất đai. Luật Đất đai 2013 đã đưa ra 03 tiêu chí xác định Hộ gia đình sử dụng đất gồm: (i) Dựa trên quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng; (ii) Đang sống chung; (iii) Có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, căn cứ nào để xác định tiêu chí “đang sống chung” thì lại chưa có hướng dẫn cụ thể. Trên thực tế, một số Tòa án căn cứ sổ hộ khẩu tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ký giao dịch bảo đảm để xác định các thành viên Hộ gia đình có quyền ký hợp đồng bảo đảm; một số Tòa án khác lại căn cứ vào Sổ hộ khẩu tại thời điểm cấp sổ hộ khẩu để xác định các thành viên có quyền đối với TSBĐ hoặc căn cứ vào Hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận để xác định quyền tài sản. Trong khi thực tế, thời điểm cấp sổ với thời điểm đề nghị cấp có thể cách xa nhau và trong khoảng thời gian chờ xét cấp sổ thì một số thành viên đã tách khẩu. Cách xử lý khác nhau của Tòa án dẫn đến tình trạng một số khoản vay có TSBĐ có thể trở thành không có TSBĐ (nếu Tòa án tuyên hợp đồng bảo đảm vô hiệu vì giao dịch bảo đảm thiếu chữ ký của thành viên của hộ gia đình) và ảnh hưởng lớn quyền chủ nợ hợp pháp của VAMC, TCTD nhận bảo đảm.
Để giải quyết vướng mắc này, tại văn bản số 152/TANDTC-PC, TANDTC đã hướng dẫn việc xác định chủ thể của quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại Điều 101 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 và hướng dẫn tại điểm 4 phần III Giải đáp số 01/2017 ngày 07-4-2017 của Tòa án nhân dân tối cao về một số vấn đề nghiệp vụ, theo đó hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất. Khi giải quyết vụ án dân sự mà cần xác định thành viên của hộ gia đình có quyền sử dụng đất, thì thời điểm để xác định hộ gia đình có bao nhiêu thành viên có quyền sử dụng đất là thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất. Việc xác định ai là thành viên hộ gia đình phải căn cứ vào hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp cần thiết, Tòa án có thể yêu cầu Ủy ban nhân dân có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất xác định thành viên hộ gia đình tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm căn cứ giải quyết vụ án và đưa họ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đồng thời, TANDTC cũng hướng dẫn khi giải quyết vụ án dân sự, ngoài những người là thành viên hộ gia đình có quyền sử dụng đất, Tòa án phải đưa người đang trực tiếp quản lý, sử dụng đất của hộ gia đình, người có công sức đóng góp làm tăng giá trị quyền sử dụng đất hoặc tài sản trên đất tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
2. Về đại diện
Theo quy định tại Điều 581 BLDS 2005, hợp đồng ủy quyền là một loại hợp đồng dân sự, chủ thể ký kết hợp đồng dân sự có thể là cá nhân (thể nhân) hoặc pháp nhân. BLDS cũng không có quy định nào giới hạn bên được ủy quyền phải là cá nhân hoặc cấm ủy quyền cho pháp nhân. Tại nhiều văn bản pháp luật khác cũng quy định việc ủy quyền giữa pháp nhân và pháp nhân: Khoản 3 Điều 2 Nghị định 78/2010/NĐ-CP về cho vay lại nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ, Khoản 1 Điều 141 Luật thương mại 2006, Khoản 2 Điều 45 Luật Kinh doanh bất động sản 2015...
Trên thực tế, các TCTD vẫn thực hiện ủy quyền cho công ty con (pháp nhân) thu hồi nợ hoặc VAMC thực hiện ủy quyền cho TCTD bán nợ thực hiện thu hồi nợ (bao gồm cả việc khởi kiện tại Tòa án).
Tuy nhiên, nhiều Tòa án căn cứ Khoản 5 Điều 2 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP và BLDS 2005 để xác định việc ủy quyền trong tố tụng dân sự phải là ủy quyền cho cá nhân. Do đó, việc VAMC ủy quyền cho TCTD (pháp nhân) khởi kiện là không phù hợp với Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP.
Để giải quyết vướng mắc này, tại văn bản số 152/TANDTC-PC, TANDTC đã hướng dẫn cụ thể về chủ thể đại diện theo ủy quyền và phạm vi đại diện như sau: Thứ nhất, về chủ thể đại diện theo ủy quyền, văn bản số 152/TANDTC-PC nêu rõ, cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự (Điều 138 Bộ luật dân sự 2015); Thứ hai, về phạm vi đại diện (Điều 141 Bộ luật dân sự 2015), người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo các căn cứ: (i) Quyết định của cơ quan có thẩm quyền; (ii) Điều lệ của pháp nhân; (iii) Nội dung ủy quyền; (iv) Quy định khác của pháp luật.
Đồng thời, TANDTC cũng hướng dẫn trường hợp không xác định được phạm vi đại diện theo các căn cứ nêu trên thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Mọi cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đai diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Căn cứ các quy định tại Điều 324, 344 BLDS 2005, Điều 293 BLDS 2015, việc các bên thỏa thuận nghĩa vụ được bảo đảm bao gồm cả các nghĩa vụ phát sinh trong tương lai (các nghĩa vụ tại các hợp đồng cấp tín dụng được ký kết sau ngày ký hợp đồng bảo đảm) là hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật.
Tuy nhiên, trên thực tế, khi phát sinh tranh chấp liên quan đến yêu cầu xử lý TSBĐ để đảm bảo cho nghĩa vụ của hợp đồng tín dụng được ký sau ngày ký hợp đồng thế chấp thì một số tòa án không chấp nhận vì cho rằng hợp đồng thế chấp chỉ được đảm bảo cho hợp đồng tín dụng đã được ký kết vào thời điểm ký hợp đồng thế chấp. Do đó, để giải quyết vướng mắc này, tại văn bản 152/TANDTC-PC, TANDTC đã hướng dẫn thống nhất về phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm, phạm vi bảo lãnh, quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh như sau: (i) Về phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm: Trường hợp bảo đảm nghĩa vụ trong tương lai thì nghĩa vụ được hình thành trong thời hạn bảo đảm là nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Điều 293 Bộ luật Dân sự 2015); các bên có quyền thỏa thuận cụ thể về phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm và thời hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Khi nghĩa vụ trong tương lai được hình thành, các bên không phải xác lập lại biện pháp bảo đảm đối với nghĩa vụ đó (Điều 294 Bộ luật Dân sự 2015). (ii) Về phạm vi bảo lãnh: Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại (Điều 366 Bộ luật Dân sự 2015). (iii) Về quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh: Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ (Điều 339 Bộ luật Dân sự 2015).
4. Về chuyển giao quyền yêu cầu
Để rõ hơn về quyền, nghĩa vụ của các bên khi chuyển giao quyền yêu cầu theo quy định pháp luật dân sự, tại điểm 4 văn bản 152/TANDTC-PC, TANDTC đã hướng dẫn, khi bên có quyền yêu cầu chuyển giao quyền yêu cầu cho bên thế quyền thì người thế quyền trở thành bên có quyền yêu cầu. Việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ. Người chuyển giao quyền yêu cầu phải thông báo bằng văn bản cho bên có nghĩa vụ biết về việc chuyển giao quyền yêu cầu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp bên chuyển giao quyền yêu cầu không thông báo về việc chuyển giao quyền mà phát sinh chi phí cho bên có nghĩa vụ thì bên chuyển giao quyền yêu cầu phải thanh toán chi phí này (Điều 365 Bộ luật Dân sự 2015).
5. Về giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực (Điều 688 Bộ luật Dân sự 2015).
Để áp dụng thống nhất quy định pháp luật đối với các giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực theo Điều 688 BLDS 2015, tại văn bản số 152/TANDTC-PC, TANDTC đã hướng dẫn cụ thể như sau: (i) Giao dịch dân sự được xác lập trước ngày BLDS 2015 có hiệu lực chưa được thực hiện mà có nội dung, hình thức khác với quy định của BLDS 2015 thì chủ thể giao dịch tiếp tục thực hiện theo quy định của BLDS 2005 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết BLDS 2005, trừ trường hợp các bên của giao dịch dân sự có thỏa thuận về việc sửa đổi, bổ sung nội dung, hình thức của giao dịch để phù hợp với BLDS 2015 và để áp dụng quy định của BLDS 2015; (ii) Giao dịch dân sự đang được thực hiện mà có nội dung, hình thức khác với quy định của BLDS 2015 thì áp dụng quy định của BLDS 2015 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết BLDS 2015; (iii) Giao dịch dân sự chưa được thực hiện hoặc đang được thực hiện mà có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của BLDS 2015 thì áp dụng quy định của BLDS 2015; (iv) Giao dịch dân sự được thực hiện xong trước ngày BLDS 2015 có hiệu lực mà có tranh chấp thì áp dụng quy định của BLDS 2005 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết BLDS 2005 để giải quyết.
6. Về kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng
Việc xác định quyền, nghĩa vụ tố tụng là một trong những khâu của quá trình tốt tụng và có ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ và hiệu quả của quá trình tố tụng. Để giải quyết vướng mắc trong việc xác định quyền, nghĩa vụ tố tụng khi thay đổi chủ sở hữu của tổ chức có quyền nghĩa vụ tố tụng, bảo đảm quá trình tố tụng sẽ bị gián đoạn, tại văn bản số 152/TANDTC-PC, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn trường hợp thay đổi chủ sở hữu của tổ chức và có việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ cho chủ sở hữu mới thì chủ sở hữu mới kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng. Trường hợp tổ chức được chuyển giao quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về dân sự thì tổ chức đó kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng (Điều 74 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
7. Về thời hiệu khởi kiện
Đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền gốc thì từ trước tới nay, Tòa án có quan điểm cho rằng đây là tranh chấp về đòi lại tài sản và không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 155 BLDS 2015 thì tranh chấp về đòi lại tài sản không còn là một trong các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện nữa. Trường hợp Tòa án có quan điểm áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền gốc thì rất bất lợi cho các TCTD/VAMC.
Để giải quyết vướng mắc này, tại văn bản số 152/TCNDTC-PC, Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn về thời hiệu khởi kiện theo BLDS 2015, theo đó, thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của BLDS 2015. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ (Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Điều 149 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Văn bản số 152/TCNDTC-PC cũng nêu rõ, thời điểm phát sinh tranh chấp dân sự quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 103/2015/QH13 là ngày khởi kiện. Việc xác định ngày khởi kiện được thực hiện theo quy định tại khoản 2, 3 và 4 Điều 190 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Quy định về thời hiệu khởi kiện tại Điều 159 và điểm h khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 được áp dụng đến hết ngày 31-12-2016 để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự. Từ ngày 01-01-2017, Tòa án áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, BLDS năm 2015 và luật khác có liên quan về thời hiệu khởi kiện để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự (Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính).
8. Về khởi kiện và thụ lý vụ án
Liên quan đến việc trả lại đơn khởi kiện và quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05-5-2017 hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13. Để làm rõ về vấn đề này, tại Điểm 8 văn bản số 152/TANDTC-PC, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về quyền khởi kiện vụ án, hình thức, nội dung đơn khởi kiện, trả lại đơn khởi kiện và nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Theo đó, về quyền khởi kiện vụ án, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
- Về hình thức, nội dung đơn khởi kiện: Cơ quan, tổ chức là người khởi kiện thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức và họ, tên, chức vụ của người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó; trường hợp tổ chức khởi kiện là doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu theo quy định của Luật Doanh nghiệp (Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
- Về trả lại đơn khởi kiện, Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện nếu người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 193 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung. Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện không ghi đầy đủ, cụ thể hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà không sửa chữa, bổ sung theo yêu cầu của Thẩm phán thì Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện (Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
- Về nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn Tòa án nhân dân các cấp áp dụng quy định tại Điều 40 Bộ luật Dân sự năm 2015 về địa chỉ nơi cư trú. Theo đó, trường hợp một bên trong quan hệ dân sự thay đổi nơi cư trú gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thì phải thông báo cho bên kia biết về nơi cư trú mới. Đồng thời, áp dụng Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nêu trên. Theo đó, Điều 5 và Điều 6 Nghị quyết này đã hướng dẫn cụ thể, chi tiết về xác định địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và việc xử lý việc ghi địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
9. Về vấn đề xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản đối với chủ nợ có bảo đảm (Điều 41 và Điều 53 Luật Phá sản 2013).
Trường hợp doanh nghiệp vay bị phá sản, TCTD yêu cầu Tòa án xử lý cả TSBĐ của bên thứ ba thì Tòa án từ chối và đề nghị khởi kiện tại một vụ án khác. Tuy nhiên, khi đã có quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, TCTD tiếp tục khởi kiện yêu cầu xử lý TSBĐ của bên thứ ba nhằm thu hồi vốn thì có Toà án chấp thuận thụ lý và giải quyết, có Toà án lại không thụ lý với lý do nghĩa vụ (khoản nợ) không còn tồn tại (do doanh nghiệp không còn tồn tại và theo luật đã được xoá nợ). Điều này đã tước bỏ quyền hợp pháp và gây thiệt hại cho TCTD.
Để giải quyết vướng mắc nêu trên và làm rõ hơn về phương thức xử lý của các Thẩm phán khi xử lý các vụ việc liên quan đến tài sản bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản đối với chủ nợ có bảo đảm, tại Điểm 9 văn bản số 152/TANDTC-PC TANDTC đã nêu rõ, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày Tòa án nhân dân có thẩm quyền thụ lý vụ việc phá sản, các Tòa án nhân dân phải thực hiện các nội dung sau:
Một là, tạm đình chỉ việc giải quyết vụ việc dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động có liên quan đến nghĩa vụ tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là một bên đương sự. Thủ tục tạm đình chỉ được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Hai là, tách và tạm đình chỉ giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự, hành chính liên quan đến nghĩa vụ tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là một bên đương sự. Thủ tục tách và tạm đình chỉ được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự, tố tụng hành chính.
Ba là, tạm đình chỉ việc xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán đối với các chủ nợ có bảo đảm.
Trường hợp sau khi mở thủ tục phá sản, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đề xuất Thẩm phán về việc xử lý khoản nợ có bảo đảm đã được tạm đình chỉ theo quy định tại khoản 3 Điều 41 của Luật Phá sản năm 2013 thì văn bản số 152/TANDTC-PC hướng dẫn Thẩm phán phải xem xét và xử lý như sau: (i) Xử lý đối với tài sản bảo đảm theo Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ nếu tài sản bảo đảm được sử dụng để thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh; (ii) Xử lý theo thời hạn quy định trong hợp đồng đối với hợp đồng có bảo đảm đã đến hạn nếu không thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh hoặc tài sản bảo đảm không cần thiết cho việc thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh. Đối với hợp đồng có bảo đảm chưa đến hạn thì trước khi tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, Tòa án nhân dân đình chỉ hợp đồng và xử lý các khoản nợ có bảo đảm.
Trường hợp tài sản bảo đảm có nguy cơ bị phá hủy hoặc bị giảm đáng kể về giá trị thì Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đề nghị Thẩm phán cho xử lý ngay tài sản bảo đảm đó theo quy định tại khoản 3 Điều 53 Luật Phá sản năm 2013, cụ thể: Đối với khoản nợ có bảo đảm được xác lập trước khi Tòa án nhân dân thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được thanh toán bằng tài sản bảo đảm đó. Trường hợp giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; nếu giá trị tài sản bảo đảm lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Đồng thời, việc xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại điểm b khoản 1 (Trường hợp không thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh hoặc tài sản bảo đảm không cần thiết cho việc thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh thì xử lý theo thời hạn quy định trong hợp đồng đối với hợp đồng có bảo đảm đã đến hạn. Đối với hợp đồng có bảo đảm chưa đến hạn thì trước khi tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, Tòa án nhân dân đình chỉ hợp đồng và xử lý các khoản nợ có bảo đảm. Việc xử lý khoản nợ có bảo đảm theo quy định tại khoản 3 Điều này) và khoản 2 Điều 53 (Trường hợp tài sản bảo đảm có nguy cơ bị phá hủy hoặc bị giảm đáng kể về giá trị thì Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đề nghị Thẩm phán cho xử lý ngay tài sản bảo đảm đó theo quy định tại khoản 3 Điều này) Luật Phá sản năm 2013 được thực hiện như sau:
Thứ nhất, đối với khoản nợ có bảo đảm được xác lập trước khi Tòa án nhân dân thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được thanh toán bằng tài sản bảo đảm đó; Thứ hai, trường hợp giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; nếu giá trị tài sản bảo đảm lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
13.11.2024
30.10.2024