Mục tiêu quan trọng trong phát triển bền vững kinh tế đất nước của các quốc gia trên thế giới, nhất là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam là không ngừng nâng cao đời sống người dân, thu hẹp khoảng cách cuộc sống giữa người giàu và người nghèo. Chính phủ các nước có thu nhập dưới trung bình và trung bình đang rất nỗ lực thực thi các giải pháp xoá đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập của người dân..., trong đó xây dựng và thực hiện chiến lược Tài chính toàn diện được coi là giải pháp quan trọng. Bởi Tài chính toàn diện là việc cung cấp dịch vụ tài chính chính thống phù hợp và thuận tiện cho tất cả các thành phần trong xã hội, đặc biệt đối với người có thu nhập thấp và dễ bị tổn thương, nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận tài chính, góp phần tạo cơ hội sinh kế, luân chuyển dòng vốn đầu tư và tiết kiệm trong xã hội. Tiếp cận tài chính sẽ tạo điều kiện và giúp các gia đình và các doanh nghiệp có kế hoạch chi tiêu hàng ngày cũng như thực hiện những mục tiêu dài hạn, đủ để chi trả những trường hợp khẩn cấp, đột suất. Các nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới đã chỉ ra rằng tài chính toàn diện không chỉ có tương quan thuận với sự tăng trưởng và việc làm, mà nó còn có quan hệ nhân quả tác động đến tăng trưởng. Vì vậy, thực thi có hiệu quả tài chính toàn diện không chỉ có ý nghĩa đối với cá nhân mà còn có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội , nhất là trong việc giảm đói nghèo cùng cực.
Với tầm quan trọng của Tài chính toàn diện như vậy, kể từ năm 2010 đến nay đã có hơn 55 quốc gia thực hiện các cam kết thực thi tài chính toàn diện, và hơn 30 nước đã đưa ra hoặc đang triển khai trong chiến lược phát triển kinh tế quốc gia. Theo tổng kết của WB, những nước đạt được những tiến bộ nhất trong việc thực thi tài chính toàn diện là những nước đã đưa ra được một môi trường pháp lý, chính sách thuận lợi, khuyến khích cạnh tranh cho phép các ngân hàng và phi ngân hàng đổi mới và mở rộng tiếp cận với các dịch vụ tài chính. Tuy nhiên, tạo không gian sáng tạo và cạnh tranh này phải được đi kèm với các biện pháp và các quy định bảo vệ người tiêu dùng thích hợp để đảm bảo cung cấp và chịu trách nhiệm về các dịch vụ tài chính.
Việt Nam trong nhiều năm qua đã thực hiện thành công chương trình xóa đói giảm nghèo, tỷ lệ đói nghéo có xu hướng giảm hàng năm, tính chung 9 tháng năm 2017, cả nước có 163,5 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 34,9% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 671,1 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 35,5%, trong 10 năm qua đã giảm được hơn 50% tỷ lệ đói nghèo. Để tiếp tục thực hiện chương này một cách hiệu quả Chính phủ đang trong quá trình xây dựng Chiến lược Tài chính toàn diện quốc gia, dự kiến được ban hành vào năm 2020 làm cơ sở để triển khai một cách đồng bộ và có hiệu quả các trụ cột của tài chính toàn diện. Dựa trên kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, Chính phủ cũng đang tập trung nguồn lực vào xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý; Phát triển cơ sở hạ tầng tài chính, công nghệ; Đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ tài chính; Xây dựng cơ chế bảo vệ người tiêu dùng và giáo dục tài chính; Quan tâm, ưu tiên đối với các đối tượng dễ bị tổn thương (các doanh nghiệp siêu nhỏ, vừa và nhỏ, người nghèo nông thôn, phụ nữ…) nhằm hỗ trợ, giúp các đối tượng này này tiếp cận tốt hơn, hiệu quả hơn các dịch vụ tài chính, ngân hàng; Xây dựng cơ chế điều phối và phối hợp huy động tổng thể nguồn lực triển khai tài chính toàn diện hiệu quả bao gồm các cơ quan quản lý, tổ chức tín dụng, tổ chức chính trị - xã hội, khu vực tư nhân….
Như vậy, để xóa đói, giảm nghèo điều không thể phủ nhận là phải thúc đẩy tài chính toàn diện, tuy nhiên để triển khai định hướng này có hiệu quả vấn đề đặt ra trước hết là phải xác định rõ đâu là rào cản chính làm cho người dân và doanh nghiệp không tiếp cận được dịch vụ tài chính, và đâu là điểm cốt lõi để người dân dễ ràng tiếp cận các dịch vụ tài chính.
Về nguyên lý mà nói, để người dân cũng như doanh nghiệp tiếp cận được dịch vụ tài chính thuận lợi, trước hết là họ phải có tài khoản ở ngân hàng, bởi tài khoản ngân hàng chính là cửa sổ để tiếp cận các dịch vụ tài chính khác, như dịch vụ thanh toán, tiết kiệm, tín dụng và bảo hiểm; tiếp đến là họ phải hiểu biết về tài chính, các sản phẩm dịch vụ tài chính của người cung cấp để có thể chủ động cân đối nguồn tài chính của mình và lựa chọn sản phẩm tài chính phù hợp và có lợi nhất cho mình; cuối cùng là khả năng cung cấp dịch vụ tài chính phù hợp của các đơn vị cung ứng dịch vụ tài chính.
Xem xét thực tế của Việt Nam về tiếp cận dịch vụ tài chính trên 3 khía cạnh trên cho thấy, trong thời gian gần đây có sự phát triển đáng ghi nhận về số lượng tài khoản mở tại ngân hàng tăng trưởng nhanh, dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng, phong phú và thuận lợi…. Tuy nhiên, nổi lên những hạn chế mà tài chính toàn diện cần hướng tới để giải quyết, đó là:
- Việc tiếp cận dịch vụ tài chính ngân hàng chủ yếu phát triển ở các thành phố lớn, đô thị còn ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa tiếp cận dịch vụ tài chính ngân hàng còn rất hạn chế: Số lượng tài khoản trong vài năm gần đây tăng trưởng rất mạnh, tính đến tháng 7/2017, thống kê của NHNN cho thấy, tổng số tài khoản thanh toán của cá nhân đạt 67,4 triệu tài khoản tăng hơn 16 lần so với năm 2004, tương ứng với khoảng 49 % dân số và 63 % số người trưởng thành có tài khoản thanh toán tại ngân hàng, song chỉ có khoảng 21% người trưởng thành ở nông thôn có tài khoản ở ngân hàng, theo đó việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng hiện đại cũng rất ít được sử dụng tại khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Thêm vào đó các dịch vụ tín dụng cũng chưa đáp ứng đủ nhu cầu ở khu vực này, chính vì vậy mà các hoạt động tín dụng đen, cho vay nặng lãi chủ yếu được thực hiện ở các vùng này.
- Mặc dù tốc độ tăng trưởng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) đã từng bước được cải thiện, từ mức tăng 2,44% năm 2013 đã đạt tốc độ tăng trưởng là 6,10% năm 2014, 7,56% năm 2015 và 15% năm 2016, và 9 tháng đầu năm 2017 là 7,49% cho thấy các TCTD đã ngày càng chú trọng nhiều hơn đối với nhóm đối tượng khách hàng là cácSMEs, song tốc độ tăng trưởng tín dụng đối với SMEs thường xuyên thấp hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng chung đối với toàn nền kinh tế, làm cho tỷ trọng dư nợ cho vay đối với SMEs trong tổng tín dụng có xu hướng giảm sút, từ mức trên 40% vào cuối năm 2011 xuống chỉ còn xuống còn khoảng 23% như hiện nay. Nhìn chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu nguồn tài chính thích hợp để phát triển mạnh và tăng trưởng, song việc tiếp cận vay vốn ngân hàng là rất khó khăn, nhất là các doanh nghiệp ở vùng sâu, vùng xa. Theo số liệu khảo sát của các nhóm nghiên cứu, hiện chỉ có khoảng 40% SMEs vay vốn ngân hàng, trong số các SMEs không vay vốn ngân hàng có khoảng 30 - 35%, bao gồm các doanh nghiệp có nhu cầu nhưng không vay được vốn và các doanh nghiệp có vay được nhưng không đầy đủ.
Nguyên nhân của thực trạng trên có thể thấy:
- Người dân ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa về cơ bản có mức thu nhập thấp, cộng thêm trình độ hiểu biết về các dịch vụ tài chính ngân hàng thấp là nguyên nhân chính khiến họ không chủ động tiếp cận dịch vụ ngân hàng. Nông thôn vẫn là nơi chiếm đến 95% hộ nghèo của cả nước, nhất là ở các vùng nông thôn khu vực vùng sâu, vùng xa. Theo Báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, năm 2016 cả nước có khoảng 2,31 triệu nghèo chiếm 9,79% hộ dân cư trên cả nước và hơn 1,24 triệu hộ cận nghèo chiếm tỷ lệ 5,27% theo tiêu chuẩn nghèo đa chiều. Trong đó, miền núi Tây Bắc có tỷ lệ nghèo cao nhất với 34,52%; tiếp đến là tây nguyên và miền núi Đông bắc với 20,74%.
- Thêm vào đó, do địa lý xa xôi, chi phí mở chi nhánh lớn mà hiệu quả mang lại thấp nên các ngân hàng, các tổ chức tài chính vi mô chưa phát triển ở các vùng này. Trên thực tế thời gian qua, nhiều NHTM đã có chiến lược mở rộng chi nhánh tới các vùng nông thôn, song mức độ bao phủ còn hạn chế. Hiện nay cung cấp dịch vụ tại chính ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa ( gọi tắt là vùng khó tiếp cận) chủ yếu là Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp và Nông thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội, các tổ chức tài chính vi mô, các công ty tài chính tiêu dùng. Về cơ bản các TCTD này đã góp phần đáng kể trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, tăng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính cho vùng khó tiếp cận.
Tuy nhiên các TCTD này chưa thực sự đáp ứng đủ nhu cầu tiếp cận của người dân, đến nay mới chỉ có 3 tổ chức tài chính vi mô (TCTCVM) chính thức được hình thành trên cở sở chuyển đổi từ các TCTCVM bán chính thức trong giai đoạn trước đây, hoạt động dưới mô hình công ty TNHH. Theo báo cáo khảo sát khả năng tiếp cận nguồn tài chính vi mô của các đối tượng yếu thế của USAID, nhận định nguồn vốn tín dụng của NHCS xã hội chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế, nhất là đối với chương trình cho vay hộ nghèo mặc dù nguồn vốn này đã tăng lên hàng năm; sản phẩm cho vay chưa linh hoạt, chưa thật sự phù hợp với các vùng miền. Cho vay sản xuất, kinh doanh chưa gắn kết tốt với việc chuyển giao khoa học, kỹ thuật, hướng dẫn cách thức sản xuất, kinh doanh, chưa kết nối sản xuất với thị trường hàng hóa và một bộ phận người nghèo sử dụng vốn vay chưa đúng mục đích đã hạn chế hiệu quả của vốn vay; đối với các TCTCVM hoạt động mang nặng tính tự phát, hành lang pháp lý hoạt động còn chưa hoàn thiện, nhiều bất cập, chưa thực sự có tính khả thi cao, phù hợp với thực tiễn. Hệ thống cung cấp dịch vụ tài chính vi mô hiện nay bao gồm 3 khu vực: chính thức, bán chính thức và phi chính thức. Mặc dù cùng phục vụ cho một nhóm đối tượng khách hàng, song hoạt động tài chính vi mô ở mỗi khu vực đang được điều chỉnh bởi các qui định pháp lý riêng biệt, chưa có sự thống nhất. Điều này tạo ra môi trường không bình đẳng cho các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tài chính vi mô. Quy mô tài sản và vốn chủ sở hữu của các tổ chức tài chính vi mô còn hạn chế (TCTCVM M7 được thành lập tháng 1/2012 với vốn điều lệ là 15,5 tỷ đồng, TCTCVM Tình thương thành lập năm 2010 với vốn điều lệ là 135,8 tỷ đồng; TCTCVM Thanh Hóa thành lập tháng 8/2014 với vốn điều lệ là 6,1 tỷ đồng), quy mô tổ chức, hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô còn rất nhỏ, sản phẩm dịch vụ tài chính nghèo nàn, chất lượng dịch vụ thấp và mức tín nhiệm chưa cao để thu hút được các đối tác lớn trong cho vay hoặc đầu tư dài hạn. Năng lực hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô còn khiêm tốn, chất lượng nguồn nhân lực không cao, tính chuyên nghiệp và trình độ chuyên môn còn hạn chế.
- Các sản phẩm dịch vụ ngân hàng trên thực tế thời gian qua cũng được các NHTM đa dạng hóa đáng kể, song các sản phẩm đó chưa thực sự hướng tới các đối tượng này. Đơn cử sản phẩm huy động hiện nay của các NHTM hướng nhiều đến các đối tượng có thu nhập cao. Thể hiện cụ thể ở các điều kiện huy động vốn, nếu người có khoản tiền gửi tối thiểu 5 tỷ sẽ được hưởng mức lãi suất huy động cao nhất của ngân hàng. Những người gửi tiền qua internet banking, mobile banking, khách hàng sẽ được cộng thêm lãi suất thưởng 0,2%/năm so với lãi suất gửi tại quầy. Thủ tục vay vốn ngân hàng đối với cả cá nhân và doanh nghiệp vẫn chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo hoặc bảo lãnh. Hiểu biết của các cán bộ tín dụng về một số ngành nghề sản xuất kinh doanh còn thiếu, dẫn đến hạn chế trong việc đánh giá hiệu quả của phương án/dự án sản xuất kinh doanh. Nói chung các sản phẩm dịch vụ hiện nay của các NHTM thực sự chưa phù hợp với các đối tượng này. Hơn nữa, việc quảng bá các sản phẩm, dịch vụ của các ngân hàng đến người dân ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa vẫn còn hạn chế khiến cho khách hàng gặp khó khăn để lựa chọn các sản phẩm phù hợp và chuẩn bị đầy đủ các thủ tục theo yêu cầu của ngân hàng.
- Mặc dù hệ thống ngân hàng thời gian qua đã có nhiều cải cách, biện pháp để giúp các SMEs có thể tiếp cận dịch vụ ngân hàng, song mức độ còn hạn chế, hiện tại chỉ có khoảng 1/3 số doanh nghiệp tiếp cận được vốn ngân hàng. Nhu cầu vay vốn của các SMEs chủ yếu là ngắn hạn trong khi nhu cầu vay vốn dài hạn mặc dù là có nhưng không nhiều và cũng khó được đáp ứng. Vấn đề này cũng đã được thảo luận nhiều trên các diễn đàn, và đưa ra kết luận, nguyên nhân của thực trạng này là do: Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của SMEs thấp, tỷ suất lợi nhuận của khu vực SMEs thường thấp hơn so với mức trung bình chung của toàn hệ thống doanh nghiệp[1]. Trong khi đó trình độ quản trị tài chính của hầu hết các SMEs vẫn còn yếu kém, một bộ phận doanh nghiệp thậm chí không có kế toán riêng, phần lớn không có khả năng xây dựng các kế hoạch tài chính cũng như kế hoạch kinh doanh dài hạn, năng lực quản lý dòng tiền thấp. Điều này dẫn đến việc các TCTD thường đánh giá mức rủi ro cao hơn đối với các SMEs, áp dụng các tiêu chuẩn cho vay khắt khe hơn, mức lãi suất cao hơn nhằm bù đắp rủi ro; các ngân hàng thương mại cho vay vẫn chủ yếu dựa vào tài sản bảo đảm trong khi năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng còn yếu không đánh giá được tính hiệu quả của phương án/dự án sản xuất kinh doanh. Các sản phẩm của các TCTD chưa được thiết kế phù hợp với tính chất và đặc điểm của những nhóm khách hàng khác nhau, nhất là đối với dân cư nông thôn, những doanh nghiệp/hộ gia đình sản xuất nông nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ; thông tin doanh nghiệp không đầy đủ là nguyên nhân quan trọng nhất về phía doanh nghiệp khiến cho hệ thống ngân hàng rất khó cho vay các SMEs. Hầu hết các SMEs không xây dựng được một hệ thống báo cáo đầy đủ, đồng thời cũng có nhiều SMEs không muốn tiết lộ thông tin. Việc hạn chế về thông tin khiến cho TCTD đánh giá rủi ro những khoản vay này cao hơn; yêu cầu tài sản đảm bảo nhiều hơn; quá trình thẩm định do không đầy đủ thông tin đầu vào thường kéo dài; và ngân hàng càng khó để cấp tín dụng mà không có tài sản đảm bảo;
- Các chính sách hỗ trợ tiếp cận dịch vụ ngân hàng, nhất là tín dụng cho dân cư khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa và SMEs đã được quan tâm xây dựng và triển khai, song trong thực tế chưa phát huy hiệu quả như mong muốn. Ví dụ như chính sách về Quỹ bảo lãnh tín dụng đã được triển khai từ đầu những năm 2000, nhưng cho đến nay số doanh nghiệp được bảo lãnh còn ít và doanh số bảo lãnh còn nhỏ.
Từ thực tế trên cho thấy, để triền khai có hiệu quả tài chính toàn diện,cần tập trung giải quyết các vấn đề mang tính cốt lõi sau:
- Nâng cao sự hiểu biết tài chính đi kèm với việc cải thiện cơ bản chất lượng cuộc sống, của người dân ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, tạo cơ sở để mở rộng nhu cầu của người dân đối với các dịch vụ ngân hàng.
Vấn đề giáo dục tài chính cần xây dựng một chiến lược có tình dài hạn, song trong khi chưa có chiến lược cũng cần có xây dụng một khung pháp lý mở, khuyến khích các tổ chức, cá nhân hình thành các sơ sở đào tạo mở thêm khóa đào tạo tài chính ở các cấp lứa tuổi khác nhau. Đặc biệt là có chính sách ưu đãi cho việc giao dục tài chính đối với các đồi tượng phụ nữ, người yếu thế ở vùng sâu, vùng xa. Hiện nay đã có nhiều công ty mở được hình thành để thực hiện các hoạt động đào tạo, giáo dục về tâm lý, các kỹ năng xã hội. Các công ty này, bên cạnh những khóa học mất phí thì cũng có các khóa miễn phí cho các đối tượng làm cha, làm mẹ. Thiết nghĩ có thể mở rộng mô hình này cho giáo dục tài chính….
- Tăng cường cung ứng dịch vụ tài chính cơ bản cho người dân vùng sâu, vùng xa. Cung ứng các sản phẩm tài chính phù hợp với cho người dân, theo đó cần:
+ Tập trung phát triển các TCTCVM, xây dựng các mô hình TCTCVM phù hợp với các vùng miền, tích cực giải quyết những hạn chế trong hoạt động của các TCTCVM hiện nay, như khung pháp lý, chính sách khuyến khích sự hình thành và của các TCTCVM
+ Các cơ quan quản lý cần tạo điều kiện thuận lợi để các TCTD đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tạo ra những sản phẩm dịch vụ mà có thể lấp đầy khoảng trống về khoảng cách địa lý. Hiện nay trên thực tế các nước đã chứng minh, gia tăng việc sử dụng công nghệ trong ngành công nghiệp tài chính (fintech) dường như đã lấp vào chỗ trống của việc bất khả tiếp cận với các dịch vụ tài chính. Sự ra đời của fintech đã tạo ra một một phương tiện cho tất cả mọi người có quyền truy cập vào tất cả các công cụ và dịch vụ tài chính với chi phí hợp lý. Ví dụ về sự phát triển fintech đã ngày càng được chấp nhận sử dụng trong các giao dịch tài chính, bao gồm robo - cố vấn, thanh toán kỹ thuật số, Mạng đồng đẳng (P2P) hoặc cho vay xã hội, và viễn thông, bảo hiểm. Fintech, viễn thông, ngân hàng và các tổ chức vi mô trên thế giới đang tay trong tay làm việc để tạo ra thanh toán di động và các cơ sở cho vay vi mô cho người khó tiếp cận dịch vụ ngân hàng. Nhiều thanh toán và thương mại hệ thống trực tuyến kết hợp với điện thoại di động đã được xây dựng để tạo điều kiện dễ dàng cho người sủ dụng. Ví dụ về các ứng dụng phổ biến đã được tạo ra để thúc đẩy tài chính toàn diện bao gồm AliPay của Trung Quốc và Wallet Paytm của Ấn Độ phục vụ 450 triệu và 122 triệu người sử dụng vào năm 2016, tương ứng.
- Mức độ sử dụng dịch vụ tài chính trong thực tế còn gặp nhiều trở ngại mà trong đó có những trở ngại từ phía cơ chế chính sách hay do thất bại của thị trường. Vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh để các tổ chức cung ứng dịch vụ cung cấp những sản phẩm tài chính có chất lượng và giá cả hợp lý sẽ giúp mọi người tiếp cận dễ dàng hơn các dịch vụ tài chính.
- Đối với các SMEs để có thể cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng thì 3 vấn đề mấu chốt được giải quyết, đó là (i) Cần nâng cao năng lực thẩm định tín dụng và thiết kế những sản phẩm đặc thù phù hợp với SMEs của các TCTD; (ii)Phát triển hệ thống thông tin doanh nghiệp và hỗ trợ các TCTD tiếp cận được các nguồn thông tin nhằm nâng cao khả năng đánh giá khách hàng vay, giảm bớt sự lệ thuộc vào tài sản bảo đảm khi cho vay; (iii) Nâng cao kiến thức về quản trị tài chính cho DNNVV nhằm tăng cường khả năng xây dựng các kế hoạch tài chính phù hợp, quản trị dòng tiền và kiểm soát rủi ro trong quá trình sử dụng vốn vay.
Để giải quyết ba vấn đề này cần sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan quản lý, hệ thống các TCTD, và cộng đồng doanh nghiệp, đồng thời cần tiến hành từng bước nhưng có tính dài hạn.
[1] Báo cáo đánh giá giữa kỳ tình hình thực hiện kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2011 – 2015 (Bộ Kế hoạch Đầu tư) thống kê: tỷ suất lợi nhuận/vốn sản xuất kinh doanh của DNNVV các năm từ 2010, 2011 chỉ đạt 1,72%, 1,51% và giảm xuống còn 0.38% vào năm 2012, trong khi tỷ lệ này trong toàn khối doanh nghiệp lần lượt là 2,93%, 2,33%, 2,00% trong 3 năm tương ứng.
13.11.2024
30.10.2024