1. Điều hành chính sách tiền tệ năm 2016 và một số kết quả đạt được
Thực hiện Chỉ thị số 01/CT-NHNN về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ (CSTT) và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2016, CSTT tiếp tục được điều hành theo hướng chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, duy trì ổn định thị trường tiền tệ. Theo đó, NHNN đã duy trì ổn định các mức lãi suất điều hành, thông qua điều hành cung tiền hợp lý, linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn với thời hạn và khối lượng hợp lý để hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín dụng, thực hiện mua ngoại tệ khi thuận lợi, qua đó duy trì dư thừa thanh khoản của hệ thống, đưa mặt bằng lãi suất liên ngân hàng ở mức thấp, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng giữ ổn định lãi suất huy động và giảm lãi suất cho vay khi có điều kiện.
Về lãi suất, các lãi suất điều hành (lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu) được duy trì ở mức ổn định để hỗ trợ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và góp phần ổn định thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Thông qua điều hành cung tiền hợp lý, linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn với thời hạn và khối lượng hợp lý để hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín dụng, thực hiện mua ngoại tệ khi thuận lợi, NHNN đã đảm bảo được thanh khoản của hệ thống, đưa mặt bằng lãi suất liên ngân hàng ở mức thấp, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng giữ ổn định lãi suất huy động và giảm lãi suất cho vay khi có điều kiện [5]. Lãi suất liên ngân hàng trong năm 2016, nhìn chung, thấp hơn nhiều so với năm 2015, do nhu cầu sử dụng vốn của hệ thống chưa cao. Mặt bằng lãi suất liên ngân hàng giảm mạnh kể từ tháng 4/2016 (từ mức 4,13%) và chỉ đến tháng 11 mới có xu hướng tăng trở lại, từ mức 1,18% lên mức 3,42% trong tháng 12, do nhu cầu vay vốn trong nền kinh tế thường tăng cao vào dịp cuối năm. Lãi suất huy động mặc dù trải qua đợt tăng lãi suất nhẹ trong tháng 9 từ các ngân hàng nhỏ1, và đợt giảm lãi suất nhẹ từ các ngân hàng lớn trong tháng 102, và có tăng nhẹ trở lại trong tháng 12 tập trung ở các kỳ hạn dưới 12 tháng, nhưng nhìn chung, mặt bằng lãi suất huy động vẫn được giữ ổn định ở mức 6,5% cho kỳ hạn 1 năm và 7,2% cho kỳ hạn trên 1 năm.
Từ cuối tháng 4/2016, thực hiện chủ trương của Chính phủ và NHNN về tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại nhà nước và một số ngân hàng thương mại cổ phần đã điều chỉnh giảm 0,5%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn và đưa lãi suất cho vay trung và dài hạn về tối đa 10%/năm đối với các khách hàng vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, đồng thời tích cực triển khai các chương trình cho vay với lãi suất ưu đãi. Ngoài ra, Thông tư 06/2016/TT-NHNN3 điều chỉnh tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn giảm dần theo lộ trình4 nhằm hạn chế rủi ro thanh khoản, hệ thống ngân hàng và các doanh nghiệp bất động sản có gần một năm để điều chỉnh, đã góp phần hỗ trợ giảm áp lực lãi suất cho các tổ chức tín dụng. Nhìn chung, mặt bằng lãi suất cho vay đã giảm từ 8,15% (tháng 5/2016) xuống 8,02%/năm đối với các khoản vay ngắn hạn, và giảm từ 10,2% xuống 10,1% bình quân đối với các khoản vay trung và dài hạn, sau đó tiếp tục được duy trì ổn định đến cuối năm 2016. (Hình 1)
Nguồn: Ngân hàng nhà nước
Về tín dụng, chính sách tín dụng được điều hành theo hướng mở rộng nhằm tăng nguồn cung ứng vốn ra nền kinh tế, hỗ trợ sản xuất kinh doanh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tập trung vào triển khai có hiệu quả các chương trình tín dụng đối với ngành, lĩnh vực, tín dụng chính sách theo chủ trương của Chính phủ. Trong năm 2016, chính sách tín dụng được điều hành theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011: (i) Khống chế trần lãi suất cho vay với nông nghiệp nông thôn; xuất khẩu; công nghiệp hỗ trợ; DNNVV; công nghệ cao (hiện ở mức
7%/năm); (ii) Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc và công cụ tái cấp vốn để hướng dòng vốn tín dụng vào nông nghiệp (TT20/TT-NHNN, ngày 29/9/2010); (iii) Kết hợp chính sách tín dụng của ngân hàng với chính sách tài khóa trong hỗ trợ lãi suất giảm tổn thất sau thu hoạch, với mức hỗ trợ 100% hoặc 50% theo thời gian vay phù hợp... Kết quả, trong năm 2016, tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý, đạt 16,46% (tính đến ngày 20/12/2016) so với cuối năm 20155.
Để đạt được những kết quả trên, nhiều giải pháp tín dụng đã được triển khai trong nhằm hỗ trợ thị trường như:
Một là, trần tăng trưởng tín dụng được kiểm soát nhưng có sự điều chỉnh linh hoạt theo TCTD. Năm 2016, trần tăng trưởng tín dụng 18 - 20% (có phân bổ theo từng nhóm TCTD) nhưng trên thực tế, tăng trưởng tín dụng đã được điều chỉnh linh hoạt cho các TCTD có điều kiện mở rộng tín dụng và đảm bảo hoạt động an toàn6.
Hai là, nhằm chống đô la hóa trong nền kinh tế, quan hệ mua - bán ngoại tệ tiếp tục được thực hiện thay cho quan hệ huy động - cho vay ngoại tệ nhưng có sự điều chỉnh linh hoạt theo thời điểm. Trong đó, trước bối cảnh hoạt động sản xuất, kinh doanh đang gặp khó khăn do chi phí đầu vào cao, sức cạnh tranh của hoạt động xuất khẩu hạn chế, ngày 27/5/2016, NHNN đã ban hành Thông tư số 07/2016/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 24/2015/TT-NHNN quy định hoạt động cho vay bằng ngoại tệ. Theo đó, một nhóm đối tượng là các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ lại được vay vốn ngắn hạn bằng ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu vốn ở trong nước nhằm thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu biên giới Việt Nam mà khách hàng vay có đủ ngoại tệ từ nguồn thu xuất khẩu để trả nợ vay đến hết ngày 31/12/2016, sau khi đã có quy định dừng cho vay với đối tượng này từ 01/4/2016. Tiếp đó, ngày 15/11/2016, NHNN ban hành Thông tư số 31/2016/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 24/2015/TT-NHNN thay thế Thông tư 07/2016/TT-NHNN quy định cho vay bằng ngoại tệ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng vay là người cư trú. Quy định này có hiệu lực thi hành từ 01/01/2017 và được thực hiện đến hết ngày ngày 31/12/2017. Việc mở lại tín dụng ngoại tệ cho doanh nghiệp (DN) xuất khẩu, NHNN mở lại một kênh vốn có lãi vay thấp hơn nhiều so với vay VND, để hỗ trợ DN và gián tiếp là hỗ trợ cho các hộ dân trong chuỗi liên kết.
Ba là, nâng cao chất lượng quản trị ngân hàng, giảm rủi ro tín dụng và hạn chế tăng trưởng tín dụng nóng thông qua việc ban hành Thông tư số 06/2016/TT-NHNN nâng hệ số rủi ro của các khoản phải đòi để kinh doanh bất động sản từ 150% lên 200% từ thời điểm 01/01/2017, giảm có lộ trình tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn xuống 40% từ 01/01/2018 và tăng tỷ lệ mua, đầu tư trái phiếu Chính phủ so với nguồn vốn ngắn hạn bình quân của tháng liền kề trước của TCTD. Ngoài ra, Chỉ thị số 04/CT-NHNN gần đây cũng nêu rõ yêu cầu các đầu mối giám sát chặt chẽ và cảnh báo TCTD có quy mô và tốc độ tăng trưởng tín dụng ở một số ngành, lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như tín dụng trung, dài hạn, tín dụng đối với nhóm khách hàng lớn, tín dụng đối với lĩnh vực đầu tư, kinh doanh bất động sản, tín dụng đối với các dự án BOT, BT giao thông.
Bốn là, nhằm thúc đẩy quá trình xử lý nợ xấu, trong năm 2016, NHNN đã ban hành nhiều văn bản, quyết định, thông tư liên quan đến việc hình thành thị trường mua bán nợ xấu, như: Thông tư 08/2016/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 19/2013/TT-NHNN quy định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản các TCTD (VAMC) theo cơ chế thị trường giúp tăng tính chủ động và quyền hạn cho VAMC; Quyết định 618/QĐ-NHNN cho phép VAMC chính thức được triển khai phương án mua bán nợ xấu theo cơ chế thị trường [6].
Về tỷ giá hối đoái, chính sách điều hành tỷ giá được điều hành theo hướng linh hoạt nhằm đáp ứng những yêu cầu từ bối cảnh thương mại và đầu tư quốc tế, tăng cường ký kết các hiệp định thương mại tự do. Theo cơ chế tỷ giá mới, tỷ giá trung tâm được NHNN công bố hàng ngày, vào trước phiên giao dịch, dựa trên cơ sở tham chiếu 3 yếu tố: (i) Diễn biến tỷ giá bình quân gia quyền trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng; (ii) Diễn biến của đồng USD và một số đồng ngoại tệ trên thị trường quốc tế; và (iii) Các cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ, mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ và chính sách kinh tế vĩ mô. Trên thực tế, trong năm 2016, tỷ giá trung tâm đã được điều chỉnh linh hoạt nhằm ứng phó với biến động trên thị trường tài chính tiền tệ quốc tế (tiêu biểu như: Sự kiện người dân Anh bỏ phiếu ủng hộ Liên Hiệp Vương Quốc Anh rời khỏi khối Liên minh châu Âu (Brexit); Kết quả bầu cử tổng thống Mỹ và những biến động với đồng USD).
Với cơ chế tỷ giá trung tâm, năm 2016, tỷ giá USD/VND không có nhiều biến động lớn. Đến cuối tháng 12 (tính đến 21/12), tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do giữ ở mức 23.176, tăng 2,3% so với cuối năm 2015. Sự ổn định của tỷ giá hối đoái được duy trì nhờ các yếu tố hỗ trợ như: (i) Cơ chế tỷ giá trung tâm và các công cụ điều tiết thị trường ngoại hối đang dần phát huy được hiệu quả, hạn chế hành vi đầu cơ, găm giữ ngoại tệ; (ii) Nguồn cung ngoại tệ tương đối dồi dào do cán cân thương mại tiếp tục thặng dư, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng trưởng khả quan; (iii) Hầu hết các đồng tiền trong rổ tính tỷ giá trung tâm của NHNN đều lên giá so với đồng USD đã giúp giải tỏa sức ép lên tỷ giá USD/VND. Sự ổn định của tỷ giá trong 10 tháng đầu năm đã giúp NHNN tích trữ được một lượng ngoại hối lên tới 40 tỷ USD. Ngoài ra, tỷ giá ổn định cũng giúp giảm tình trạng đô la hóa, tỷ lệ USD trên tổng phương tiện thanh toán (M2) giảm xuống còn 10%, tương đương mức đô la hóa nhẹ của theo tiêu chuẩn của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF).
Tuy nhiên, trong hai tháng cuối năm, tỷ giá trong nước diễn biến tăng mạnh do những biến động từ thị trường tài chính quốc tế như: (i) Kết quả cuộc bầu cử tổng thống Mỹ; (ii) Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) quyết định tăng lãi suất cơ bản USD lên mức từ 0,5-0,75% vào ngày 14/12/2016, tiếp tục đưa ra thông điệp về việc có thể nâng lãi suất thêm 3 lần nữa trong năm 2017 [1]. Cách thức điều hành tỷ giá mới linh hoạt hơn đã giúp cho tỷ giá biến động hàng ngày theo kịp với những diễn biến trên thị trường trong nước và quốc tế. (Hình 2)
Nguồn: Reuters
2. Triển vọng chính sách tiền tệ năm 2017
Chính sách tiền tệ được dự báo sẽ tiếp tục duy trì theo hướng chủ động, linh hoạt, nới lỏng thận trọng, nhằm ổn định thị trường tiền tệ, bảo đảm thanh khoản hệ thống, cung ứng vốn có hiệu quả cho nền kinh tế, hỗ trợ ổn định tỷ giá, tạo điều kiện tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước phù hợp với điều kiện thực tế và kiểm soát lạm phát theo mục tiêu.
Về điều hành lãi suất, các giải pháp điều hành nhằm phấn đấu ổn định lãi suất như năm 2016 cần tiếp tục được thực hiện [3]. Tuy nhiên, lãi suất có thể chịu áp lực tăng bởi các lý do: (i) FED có thể sẽ tăng tiếp lãi suất theo lộ trình đã đặt ra từ trước, qua đó, tác động lên đến lãi suất toàn thế giới; (ii) Lạm phát trong năm 2017 sẽ tiếp tục tăng, qua đó, gây ra áp lực tăng lãi suất tiền gửi với hệ thống ngân hàng; và (iii) Các NHTM có thể sẽ chịu áp lực tăng lãi suất để thu hút các khoản tiền gửi dài hạn nhằm đáp ứng quy định thanh khoản mới của Ngân hàng Nhà nước bắt đầu áp dụng từ đầu năm 20178.
Về chính sách tín dụng, các biện pháp kiểm soát tăng trưởng tín dụng theo chỉ tiêu định hướng, phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ, đảm bảo tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong tiếp cận vốn tín dụng. Mức chỉ tiêu tăng tưởng tín dụng 2017 nên được xây dựng theo định hướng đảm bảo tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong tiếp cận vốn tín dụng; tập trung tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ. Ngoài ra, tín dụng ngoại tệ và tín dụng ở một số ngành rủi ro sẽ được kiểm soát chặt chẽ hơn để chống đô la hóa và ngăn chặn rủi ro nợ xấu.
Về chủ trương chống đô la hóa trong nền kinh tế, NHNN vẫn cần tiếp tục kiểm soát chặt chẽ hoạt động tín dụng ngoại tệ dù đã có động thái sẽ tiếp tục mở tín dụng ngoại tệ để hỗ trợ doanh nghiệp trong năm 2017. Tuy nhiên, tỷ giá USD/VND vẫn còn tiềm ẩn rủi ro bởi các yếu tố sau: (i) Trạng thái thặng dư cán cân thương mại chưa thật sự bền vững bởi trạng thái hiện nay có được là nhờ một phần không nhỏ của việc nhập khẩu liên tục giảm bớt, tuy nhiên, tốc độ giảm nhập khẩu đang dần chậm lại và bắt đầu đảo chiều9; (ii) Xu hướng của các đồng tiền của nền kinh tế lớn (như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản) khó lường trong bối cảnh FED sẽ tiếp tục tăng dần lãi suất trong khi NHTW châu Âu và Nhật Bản tăng cường các biện pháp nới lỏng tiền tệ bằng các gói nới lỏng định lượng (QE) và chính sách lãi suất âm.
TS. Nguyễn Viết Lợi
Viện trưởng Viện Chiến lược và chính sách tài chính, Bộ Tài chính
13.11.2024
30.10.2024