Thông 
 tư  số 28/2012/TT-NHNN (Thông  tư 28) của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định  
 về  bảo lãnh ngân hàng có hiệu  lực áp dụng từ ngày 02/12/2012.  Sau 6 tháng áp 
  dụng, Thông tư 28 đã góp phần  chấn chỉnh việc thực hiện 
 nghiệp vụ bảo lãnh tại các ngân hàng. Tuy nhiên, Thông tư 28 vẫn tồn tại nhiều  
 bất cập cần phải được sửa đổi mới đáp ứng được yêu cầu thực tế về nghiệp vụ bảo 
  lãnh. Trong bài viết này, người viết xin chia sẻ một số bất cập phát sinh  
trong   các giao dịch bảo lãnh và đề xuất sửa đổi, bổ    
sung.
Vấn   đề thứ nhất: Bên được bảo lãnh  và bên  
chỉ thị phát hành bảo  lãnh
Ðiều 
 3 Thông tư 28  giải  thích bên  được bảo lãnh và hợp đồng bảo lãnh  như   
sau:
Bên  được bảo  lãnh là tổ chức (bao  gồm tổ   
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước  ngoài), cá  nhân là người cư trú  và tổ 
  chức là người không cư trú được tổ chức  tín dụng, chi  nhánh ngân hàng  nước  
ngoài bảo lãnh. 
Hợp  đồng cấp  bảo lãnh là văn bản  thỏa thuận 
 giữa bên bảo lãnh với bên được bảo lãnh  và các  bên có liên quan  (nếu có) về  
 quyền, nghĩa vụ và các nội dung khác trong  việc  thực hiện bảo  
 lãnh.
Thông tư  28 không đề cập đến bên   yêu cầu  
phát hành bảo lãnh (bên chỉ thị). Tuy nhiên, có  thể hiểu từ quy định   trên  
rằng trong giao dịch bảo lãnh ngân hàng theo Thông tư  28, bên được bảo  lãnh   
cũng đồng thời là bên chỉ thị.
Hầu hết  các giao dịch bảo lãnh cho   thấy bên 
 chỉ thị thường cũng chính là bên được bảo  lãnh. Tuy nhiên, thực tế  cũng  cho  
thấy có những giao dịch bảo lãnh mà bên chỉ  thị không phải là bên  được bảo   
lãnh. Trường hợp này xảy ra khi bên chỉ thị là  một công ty mẹ và bên  được bảo  
 lãnh là một công ty phụ thuộc.
Ví dụ,  Công ty Aaa là một công ty   xây dựng  
hạch toán  phụ thuộc của Công ty A được  Công ty A ủy quyền trực tiếp  ký  kết  
và thực hiện các hợp đồng xây dựng với các  khách hàng, nhưng Công ty  Aaa   
không được  Công ty A ủy quyền vay vốn với các tổ  chức tín dụng. Công ty  Aaa  
ký  một hợp đồng xây dựng với Công ty B, theo đó Công  ty Aaa phải cung cấp  
 một  bảo  lãnh thực hiện hợp đồng cho Công ty B là bên nhận  bảo  
 lãnh.
Công 
 ty Aaa  không được ủy quyền vay vốn ngân hàng, do vậy, Công ty A  chỉ thị ngân  
 hàng của  mình phát hành bảo lãnh để bảo lãnh cho Công ty Aaa. Trong giao dịch  
 này, Công  ty A đóng vai trò bên chỉ thị, còn Công ty Aaa là bên được bảo   
lãnh.
Nếu  theo  Thông tư 28 thì giao dịch  này  
không thể thực hiện được bởi bên được bảo  lãnh  được hiểu cũng là bên chỉ  thị  
 hay bên yêu cầu phát hành bảo lãnh.  
Về 
    các bên  tham gia giao dịch bảo lãnh, URDG 758 (Uniform Rules for Demand   
Guarantee - Bộ  quy tắc thống 
 nhất về  bảo lãnh trả tiền ngay) của ICC  quy định bên được bảo lãnh có thể  
 đồng  thời là  bên chỉ thị hoặc không phải là bên chỉ thị và ngược lại. Ðiều 2  
 URDG758  định  nghĩa bên được bảo lãnh và bên chỉ thị như    
sau:
Bên 
     được bảo lãnh (Applicant) nghĩa là bên 
     được chỉ định trong bảo lãnh là bên có nghĩa vụ theo mối quan hệ (hợp đồng) 
 cơ    sở được bảo đảm bằng bảo lãnh. Bên được bảo lãnh có thể là hoặc không 
 phải  là   bên chỉ thị.
Bên 
 chỉ thị (Instructing Party), khác với bên bảo lãnh đối ứng, là bên chỉ thị      
(cho bên bảo lãnh) 
 phát hành một bảo lãnh hoặc một bảo lãnh đối ứng và chịu trách nhiệm bồi hoàn   
 cho bên bảo lãnh hoặc bên bảo lãnh đối ứng (nếu là bảo lãnh đối ứng). Bên chỉ   
   thị có thể là hoặc không phải là bên được bảo  
 lãnh.
Nếu có  thể, đề nghị Ngân hàng Nhà   nước xem  
xét sửa đổi Thông tư 28 bổ sung thêm “bên  chỉ thị” để phù hợp với tập   quán  
quốc tế, cụ thể là URDG 758, cũng như thực tế  phát sinh từ hoạt động bảo   
 lãnh  ngân hàng trong nước.
Trở lại  với tình huống ví dụ nêu   trên, cách 
 giải quyết duy nhất trong khi chờ đợi Thông  tư 28 sửa đổi là Công ty  A có thể 
 ủy quyền và bảo lãnh cho Công ty Aaa vay vốn  ngân hàng. Trong trường   hợp 
 này,  ngân hàng có thể xem xét cấp tín dụng bảo lãnh  cho Công ty   
 Aaa.
Vấn   đề thứ hai: Ngôn ngữ    
Về vấn  đề ngôn ngữ sử dụng trong   các văn  
bản liên quan đến giao dịch bảo lãnh, Ðiều 7  Thông tư số 28 quy định:     
1. 
 Các văn bản  liên quan đến giao dịch bảo lãnh được lập bằng tiếng  Việt;    
2.  Trong trường hợp cần sử dụng  tiếng nước  
ngoài, các bên liên quan được thỏa  thuận  sử dụng thêm tiếng nước  ngoài trong  
các văn bản liên quan đến giao dịch  bảo  lãnh. Trường hợp có sự  khác nhau về   
cách hiểu giữa văn bản tiếng Việt và  tiếng  nước ngoài thì văn bản  tiếng Việt  
là căn cứ pháp lý.
Quy định  như trên chỉ phù hợp khi   các bên  
tham gia giao dịch bảo lãnh là các tổ chức  hoặc cá nhân và cơ quan giải  quyết  
tranh chấp liên quan đến bảo lãnh tồn tại và  và hoạt động theo luật pháp  Việt  
Nam. Khi một bên tham gia giao dịch bảo lãnh  là tổ chức hoặc cá nhân ở  nước   
ngoài hoặc khi luật điều chỉnh và/hoặc cơ quan  giải quyết tranh chấp là  luật   
nước ngoài và tòa án nước ngoài, thì  việc yêu  cầu các văn bản liên quan  đến   
giao dịch bảo lãnh được lập bằng tiếng Việt hay  bằng song ngữ với bản  tiếng  
Việt  được sử dụng làm căn cứ pháp lý xem ra khó  được chấp nhận.     
Giao  dịch bảo lãnh trên cơ sở bảo   lãnh đối  
 ứng của ngân hàng nước ngoài  là một ví  dụ điển hình cho thấy sự bất   cập của 
 quy định về ngôn ngữ của Thông tư 28.   Trong giao dịch này, ngân hàng   nước  
ngoài không thể và không chấp nhận phát  hành bảo lãnh đối ứng (bao gồm cả    
nội  dung bảo lãnh trên cơ sở bảo lãnh đối  ứng) bằng tiếng Việt hay bằng song   
 ngữ.  
Tương  tự, ngân hàng nước ngoài, vì   nhiều lý 
 do khác nhau, cũng sẽ không chấp nhận bảo  lãnh đối ứng bằng tiếng Việt  do tổ  
 chức tín dụng trong nước phát hành, cũng như  sẽ không chấp nhận phát  hành  
bảo  lãnh bằng tiếng Việt hay bằng song ngữ  tiếng  Việt và tiếng nước  ngoài 
theo   yêu cầu của tổ chức tín dụng trong  nước.
Ðối với  giao dịch bảo lãnh  mà bên   nhận bảo 
 lãnh  là tổ chức hay cá nhân ở nước ngoài,  việc phát hành bảo lãnh  ngân  hàng 
 bằng tiếng Việt hay bằng song ngữ với tiếng  Việt được sử dụng làm  căn cứ   
pháp  lý chắc chắn cũng sẽ không được bên nhận bảo  lãnh chấp  
 nhận.
Thực tế  cho thấy các giao dịch mua   bán  
ngoại thương thanh toán bằng hình thức chuyển  tiền bằng điện, nhờ thu chứng  
 từ  hay thư tín dụng đều sử dụng ngôn ngữ tiếng  nước ngoài nhưng khi có tranh  
  chấp xảy ra và tranh chấp nếu được đưa ra tòa án  Việt Nam xét xử,  tòa án 
Việt   Nam vẫn thụ lý xét xử, chứ không từ chối vì lý do  ngôn ngữ sử dụng trong 
các   văn  bản giao dịch là bằng tiếng nước ngoài. Vậy,  Ngân hàng Nhà nước cũng 
cần   xem xét  sửa đổi quy định về ngôn ngữ sử dụng trong  các văn bản liên quan 
đến   giao dịch  bảo lãnh để phù hợp với thực tế cũng như  tập quán quốc  
 tế.
Theo ý  kiến của người viết, Thông   tư 28 cần 
 sửa đổi quy định về việc sử dụng ngôn ngữ  trong các giao dịch bảo   lãnh. Theo 
  đó,  các văn bản liên quan đến giao dịch bảo  lãnh mà các bên tham  gia  giao  
dịch gồm các tổ chức và cá nhân hoạt động theo  luật pháp Việt Nam  được lập   
bằng tiếng Việt hoặc bằng song ngữ tiếng Việt và  tiếng nước ngoài nếu  cần  
thiết;  trường hợp các văn bản được lập bằng song ngữ  có sự khác nhau về  cách  
hiểu giữa  văn bản tiếng Việt và tiếng nước ngoài thì  văn bản tiếng Việt  là  
căn cứ pháp lý.  Ðối với giao dịch bảo lãnh có yếu tố nước  ngoài, bao gồm  
 giao  dịch bảo lãnh đối  ứng hoặc giao dịch bảo lãnh mà bên nhận  bảo lãnh là 
tổ   chức  hoặc người nước  ngoài, ngôn ngữ sử dụng trong các văn bản  liên quan 
có   thể  bằng một thứ tiếng  Anh hoặc bằng một tiếng nước ngoài phổ biến  được 
các   bên  chấp nhận.
Vấn   đề thứ ba: Hợp đồng cấp bảo  lãnh; hồ sơ 
 đề nghị bảo lãnh 
Ðiều 
 13  Thông tư 28 quy định để thực hiện bảo lãnh, bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh 
 và  các bên liên quan (nếu có) phải thỏa thuận ký kết hợp đồng cấp bảo lãnh.   
Theo  đó, hợp đồng cấp bảo lãnh bao 
 gồm các nội dung chủ yếu sau: 
a)  Các quy định pháp luật áp  
 dụng;
b)  Thông tin về các bên trong quan  hệ bảo  
lãnh:
c)  Số tiền, đồng tiền bảo  
 lãnh;
d)  Mục đích bảo  
 lãnh;
đ)   Hình thức phát hành cam kết bảo  
 lãnh;
e)  Ðiều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo  
 lãnh;
g) 
     Biện 
 pháp bảo     đảm cho nghĩa vụ của bên được bảo lãnh, giá trị tài sản bảo đảm 
 (nếu   có);
h)  Quyền và nghĩa vụ của các  
 bên;
i) 
 Phí bảo  lãnh;
k) 
 Ðiều khoản  miễn, giảm số tiền bảo lãnh (nếu  có);
l) 
 Chuyển  nhượng quyền và nghĩa vụ của các  bên;
m) 
 Cam kết về nhận 
 nợ trả thay, lãi suất nhận nợ bắt buộc và hoàn trả nợ (trong trường hợp bên bảo 
 lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh);
n)  Giải quyết tranh chấp phát  
 sinh;
o)  Số hiệu, ngày ký hợp đồng, hiệu  lực của  
hợp đồng;
p)  Các nội dung  
 khác.
Thông 
 tư 28  cũng quy định cụ 
thể  (từ Ðiều 25 - Ðiều 30) quyền  và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng cấp 
 bảo  lãnh.
Một  hợp đồng  cấp bảo lãnh nếu quy  định đầy  
 đủ các nội dung trên có thể dài ít nhất  4 trang  hoặc nhiều hơn với  font chữ  
 Times New Roman cỡ 10.  
Quy 
    định các  bên tham gia  giao dịch  bảo lãnh phải thỏa  
 thuận ký kết hợp đồng cấp bảo lãnh với đầy đủ các  nội dung  trên đây chỉ  phù  
 hợp với các giao dịch bảo lãnh mà các bên  tham gia  giao dịch  bảo lãnh là  tổ 
   chức hoặc cá nhân trong nước.  
Ðối 
 với giao  dịch phát hành bảo lãnh 
trên cơ sở bảo lãnh đối ứng của  ngân hàng nước ngoài hoặc của tổ chức tín dụng  
 trong nước, bên bảo lãnh đối ứng   thường chỉ phát hành thư bảo lãnh đối ứng    
đơn  giản bằng điện Swift MT 760 gồm  (i) nội dung bảo lãnh mà bên bảo lãnh được 
 chỉ  thị phát hành; và (ii) cam kết  hoàn trả của bên bảo lãnh đối ứng. Trong  
 trường  hợp này, bảo lãnh đối ứng phát  hành bằng điện Swift có thể được xem là 
  thỏa  thuận hợp đồng cấp bảo lãnh giữa  bên bảo lãnh đối ứng và bên bảo lãnh,  
 thường  không  bao gồm quá nhiều nội dung  chi tiết như theo quy định tại Thông 
  tư 28 và  tất nhiên cũng không được ký tên  và đóng dấu bởi các bên liên quan. 
     
Vì 
 vậy, đề  nghị Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu bổ sung quy định liên quan đến  
 hợp đồng  cấp bảo lãnh trong trường hợp tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh trên cơ sở bảo lãnh đối   
  ứng được phát hành bằng điện Swift. Theo đó,  cho phép  hợp đồng cấp bảo lãnh 
 có  thể được thể hiện bằng hình thức điện Swift  thích hợp, ví dụ, MT 760.     
Vấn   đề thứ tư: Ðiều kiện đối với  bên được  
bảo lãnh
Ðiều 
 10  Thông tư 28 quy   
 định  về điều kiện đối với bên được bảo lãnh như    
sau:
1.  Có đầy đủ năng lực pháp luật dân  sự, năng 
 lực hành vi dân sự theo quy định của  pháp  luật.
2.  Nghĩa vụ bảo lãnh và giao dịch  phát sinh  
nghĩa vụ bảo lãnh là hợp  pháp.
3. 
 Có khả năng thực hiện đúng và 
     đầy đủ nghĩa vụ cam kết với các bên liên quan trong quan hệ bảo   
lãnh.
Quy 
    định  trên chỉ có thể áp dụng khi bên được bảo lãnh là tổ chức hoặc cá nhân 
 có  quan hệ  tín dụng trực tiếp với tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh. Trường 
 hợp  bảo lãnh  được phát hành 
 trên cơ  sở bảo lãnh đối ứng của  tổ chức tín dụng khác trong nước hay nước  
 ngoài, tổ chức  tín dụng phát hành bảo  lãnh chỉ xem xét điều kiện đối với bên  
 phát hành bảo lãnh  đối ứng, chứ không  trực tiếp thẩm định bên được bảo lãnh   
để  xác định bên được  bảo lãnh có đáp ứng  được các điều kiện được quy định tại 
 Ðiều 10 hay không.   Trong trường hợp này,  trách nhiệm  thẩm định bên được bảo 
 lãnh thuộc về  bên  phát hành bảo lãnh đối  ứng.  
Ðiều 
 10 trên   đây cần được bổ sung thêm để làm rõ nội dung  
 này.
Vấn 
     đề thứ năm: 
Thẩm quyền ký hợp đồng cấp bảo lãnh, cam kết bảo  
 lãnh
Về 
  thẩm  quyền ký kết hợp đồng cấp bảo lãnh, cam kết bảo lãnh, Ðiều 15  quy định  
như   sau:
1.  Hợp đồng cấp bảo lãnh, cam kết  bảo lãnh  
của bên bảo lãnh phải được ký  bởi:
a)  Người đại diện theo pháp  
 luật;
b) Người quản lý 
 rủi ro hoạt động bảo lãnh;
c)  Người thẩm định khoản bảo  
 lãnh.
2. 
 Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài quy định việc ủy quyền ký hợp  
    đồng cấp bảo lãnh, các cam kết bảo lãnh đối với người đại diện theo pháp 
 luật,   người quản lý rủi 
ro hoạt động bảo lãnh và người thẩm định khoản bảo lãnh cho các chức danh trong  
 hệ thống của mình bằng văn bản hoặc ban hành văn bản quy định thẩm quyền ký các 
  văn bản bảo lãnh phù hợp với quy định tại Thông tư này và quy định của pháp   
 luật.
Có 
 lẽ quy  định chặt chẽ 
    nêu trên  phát sinh từ sau những tranh chấp liên quan đến các bảo lãnh ngân  
 hàng  được  cho  là ký vượt thẩm quyền của người ký. Người viết cho rằng quy    
định trên  chỉ nên áp  dụng đối với hợp đồng cấp bảo lãnh, chứ  không nên áp  
 dụng đối với  cam kết bảo  lãnh. 
Cam 
 kết bảo  lãnh được ký bởi một người đại diện theo pháp luật hoặc người được ủy  
 quyền bảo  đảm đầy đủ tính pháp lý. Quy định cam kết bảo lãnh phải được ký bởi  
 3  người là  khiên cưỡng, mang tính chữa cháy sau những vụ tranh chấp liên quan 
   đến  bảo lãnh giả   
mạo,  bảo  lãnh được cho là ký vượt thẩm quyền của người ký.     
Liên 
 quan  đến thẩm quyền ký bảo lãnh, nhiều luật sư cho rằng ngân hàng phát hành   
phải có  trách nhiệm thực hiện nghĩa bảo lãnh nếu bảo lãnh được đóng dấu và ký   
tên bởi  người đại diện theo 
 pháp luật hoặc người được ủy quyền. Quy định hạn mức ký bảo lãnh, thẩm quyền ký 
 bảo lãnh là quy định nội bộ của ngân hàng, khách hàng không thể và không có   
 trách nhiệm phải kiểm tra người ký bảo lãnh ngân hàng có đủ thẩm quyền hay   
 không.
Một 
 ví dụ rõ  ràng nhất   
cho thấy quy  định bảo lãnh phải được ký bởi 3 người theo quy định là không cần  
 thiết, đó là  trường hợp phát hành bảo lãnh bằng điện Swift. Bảo lãnh phát 
 hành   bằng điện  Swift không có bất kỳ chữ ký nào. Khi nhận được bảo lãnh ngân 
 hàng   bằng điện  Swift, ngân hàng kiểm tra tính xác thực của bảo lãnh và thông 
 báo  cho  bên nhận  bảo lãnh. Rõ ràng ngân hàng phát hành bảo lãnh không thể  
viện lý  do  rằng bảo  lãnh đó là giả mạo hay được duyệt bởi người không có đủ  
thẩm  quyền  để  từ chối  thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nếu chứng từ xuất trình 
 phù hợp.  Trong  trường hợp  này, việc ký duyệt vượt thẩm quyền trở thành câu 
 chuyện nội  bộ của  ngân hàng  phát hành bảo lãnh.
Theo 
 tinh  thần trình bày ở trên, đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét sửa đổi nội  
 dung  liên  quan đến thẩm quyền 
 ký  kết cam kết bảo lãnh tại  Ðiều 15. Theo đó, cam kết bảo lãnh có giá trị   
pháp  lý  khi được ký bởi người đại  diện theo pháp luật hoặc người được ủy  
quyền (mà  không  cần phải có thêm chữ ký  của người quản lý rủi ro hoạt động  
bảo lãnh và  người  thẩm định khoản bảo lãnh).  
Vấn   đề thứ sáu: Thời hạn kiểm tra  chứng từ  
 và thông báo từ chối
Ðiều 
 20  (Thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh) quy định:  
... 
 Chậm nhất sau 05 (năm) ngày làm việc kể từ ngày bên nhận bảo lãnh xuất trình    
 đầy  đủ bộ hồ sơ đề nghị thực hiện nghĩa vụ bảo 
lãnh, bên bảo lãnh, bên xác nhận bảo lãnh có trách nhiệm thực hiện đầy đủ, đúng  
 nghĩa vụ bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp từ chối thực hiện nghĩa 
  vụ bảo lãnh, bên bảo lãnh, bên xác nhận bảo lãnh phải trả lời bằng văn bản nêu 
  rõ lý do từ chối.
Quy 
    định  trên có phần khác với URDG 758. URDG 758 chốt thời hạn kiểm tra chứng  
từ,   trong  khi Thông tư 28 chốt thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Về việc  
thông  báo từ  chối, có thể hiểu ngầm rằng thông báo từ chối phải được thực 
 hiện  trong  vòng 5  ngày làm 
 việc  kể từ  ngày bên nhận bảo  lãnh xuất trình đầy đủ bộ hồ sơ đề nghị thực 
 hiện  nghĩa  vụ bảo  lãnh. Tuy  nhiên, điều này không được Thông tư 28 quy định 
 rõ.    
URDG 
 758   quy định nếu bên bảo lãnh từ chối yêu cầu đòi tiền thì phải gửi một thông 
 báo  duy nhất nêu rõ: 
     
(i)  bên bảo lãnh từ chối yêu cầu  đòi tiền;  
và 
(ii)  từng bất hợp lệ mà căn cứ vào  đó bên  
bảo lãnh từ chối. 
Thông 
 báo từ chối phải được gửi đi  không được chậm trễ nhưng không được trễ hơn kết  
 thúc ngày làm việc thứ năm kể từ ngày xuất trình. Nếu bên 
 bảo lãnh không gửi thông báo như vậy trong thời hạn quy định thì sẽ mất quyền   
 tuyên bố rằng yêu cầu đòi tiền và các chứng từ liên quan không cấu thành một sự 
     xuất trình hợp lệ.
Nên 
 chăng,  NHNN xem xét lại vấn đề  này.
KẾT   LUẬN
Thông 
 tư 28  về nghiệp vụ bảo lãnh  ngân hàng đã có nhiều   
thay đổi để ngày một phù hợp hơn với tập quán quốc tế về  bảo lãnh ngân hàng.   
Tuy nhiên, qua thực tế 6 tháng áp dụng, người viết bài này  là người thực hành   
nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng nhận thấy rằng quy định của  Thông tư 28 vẫn   
còn một số bất cập như đã trình bày cần phải được tiếp tục sửa  đổi, bổ sung để  
   hoàn thiện 
 hơn.
Nguyễn Hữu Đức
Vietcombank  
Đà Nẵng