28.09.2006 10:47

Những vấn đề cấp bách trong quá trình hội nhập của hệ thống ngân hàng Việt Nam

1. Vấn đề tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hoá chương trình hành động của ngành Ngân hàng để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả

Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế. Triển khai thực hiện chủ trương này, Chính phủ và từng ngành, trong đó có ngành Ngân hàng đã xây dựng chương trình hành động về hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực hoạt động của mình. Chương trình hành động của ngành Ngân hàng trong mấy năm qua đã phát huy tác dụng tích cực trong việc thống nhất các nhận thức và định hướng hành động của toàn ngành trong việc chuẩn bị cho hội nhập. Do vậy, cần khẩn trương rà soát, đánh giá lại tất cả những công việc đã được chuẩn bị, tiếp tục bổ sung, cụ thể hoá và hoàn thiện các nội dung của chương trình hành động của ngành Ngân hàng (từ mục tiêu, nhiệm vụ, lộ trình thực hiện các cam kết, lộ trình và các giải pháp chủ yếu thực hiện các nội dung cụ thể, trong đó có việc tái cơ cấu, nâng cao năng lực về tài chính, công nghệ, nhân lực, quản trị điều hành của các ngân hàng…) và xốc lại đội ngũ để bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn thực sự hội nhập và hoạt động trong môi trường có tính cạnh tranh khu vực và quốc tế. Đồng thời, ngành Ngân hàng phải đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến để tất cả cán bộ có thể biết, hiểu và tích cực tham gia thực hiện các nội dung chủ yếu của chương trình hành động về hội nhập trong hoạt động ngân hàng.

Hệ thống QTDND thành lập tổ chức liên kết và phát triển hệ thống để có điều kiện chủ động hội nhập tốt hơn.

2. Xác định và ứng xử với các thời cơ và thách thức

Thời gian gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng, có nhiều ý kiến đề cập đến các thời cơ và thách thức đối với nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng khi cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế. Theo chúng tôi, hiện nay và trong thời trước mắt, một mặt, chúng ta nên hệ thống hoá các nhóm ý kiến, chỉ rõ những vấn đề đã được nhận thức thống nhất, những vấn đề còn có ý kiến khác nhau để tập trung trao đổi thêm, xác định rõ ràng hơn và tuyên truyền cho mọi cá nhân, tổ chức ngân hàng nhận thức đúng và đầy đủ các nguy cơ, thách thức chung để có sự tự giác, tích cực tham gia các chương trình hành động của cả hệ thống ngân hàng; mặt khác, cần chuyển mạnh sang giai đoạn mỗi ngân hàng chủ động nghiên cứu sâu, xây dựng các chương trình, kế hoạch hành động của mình để có thể sử dụng tối đa những cơ hội và vượt qua nhanh hơn, mất ít chi phí hơn đối với các thách thức cụ thể của ngân hàng mình.

3. Vấn đề xác định tầm nhìn và xây dựng chiến lược phát triển bền vững của mỗi ngân hàng

Nếu không phát sinh những khó khăn lớn và đột xuất thì thời điểm nền kinh tế Việt Nam phải chấp nhận cạnh tranh và hội nhập sâu rộng theo các cam kết quốc tế chắc sẽ vào cuối năm 2006. Trong khi đó, mỗi ngân hàng còn bộn bề nhiều việc cấp bách như xử lý nợ xấu,… nên sức ép về thời gian chuẩn bị ứng phó với tình hình mới càng trở nên căng thẳng hơn. Mặc dù vậy, để không bị rối, không xảy ra tình trạng thiếu nhất quán và lãng phí nguồn lực, cần có tầm nhìn xuyên suốt và chiến lược phát triển cho một giai đoạn trên cơ sở giải quyết những vấn đề trước mắt và lâu dài theo một trình tự và cách thức hợp lý. Theo cách hiểu phổ biến hiện nay, tầm nhìn của một ngân hàng là cách diễn đạt rất cô đọng, ngắn gọn phương châm hành động mang tính định hướng xuyên suốt cho một giai đoạn tương đối dài và thường bao hàm các nội dung chủ yếu như sau: (1) Đưa ra mục đích, phương hướng hành động cho một thời gian dài (ít ra là trên 10 năm) được thể hiện sự nhạy cảm cao, phản ảnh rõ bản lĩnh và những bản sắc riêng có của ngân hàng, đồng thời, phù hợp với mầm mống của những xu hướng đã và sẽ phát triển của các điều kiện, yếu tố chi phối hoạt động ngân hàng trong thời gian tương ứng; (2) Quan điểm và chính sách của ngân hàng trong việc phục vụ lợi ích của các nhóm khách hàng; (3) Nêu bật các căn cứ chủ yếu có thể thuyết phục về tính khả thi và hiệu quả của các định hướng hành động của ngân hàng trong tương lai; (4) Chỉ rõ các động lực thúc đẩy chương trình hành động của ngân hàng và cơ chế đảm bảo lợi ích của mỗi cán bộ, nhân viên ngân hàng khi tích cực tham gia thực hiện; (5) Nêu cách thức mà ngân hàng sẽ làm để đảm bảo các nội dung chủ yếu của tầm nhìn được truyền đạt công khai, đầy đủ, chính xác đến tất cả mọi thành viên của ngân hàng để mọi người đều được hiểu biết và tự giác, tích cực tham gia; (6) Đưa ra các nguyên tắc để có thể xây dựng cơ chế theo dõi, giám sát, điều chỉnh và đánh giá hiệu quả công việc theo các phương hướng hành động đã được hoạch định.

Tầm nhìn với các nội dung như trên phải được cụ thể hoá cho phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn nhỏ hơn thành các chiến lược phát triển cho 5 - 10 năm và kế hoạch kinh doanh hằng năm. Một trong những mục tiêu chủ yếu của chiến lược phát triển của mỗi ngân hàng cần xác định rõ ràng là cải thiện và nâng cao lên mức độ cần đạt tới về năng lực cạnh tranh của ngân hàng mình trong tương quan so sánh với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường; Không chuẩn bị những năng lực cần thiết để có thể đáp ứng được yêu cầu tối thiểu của cuộc chơi thì việc tham gia là duy ý chí và ẩn chứa nguy cơ thất bại.

Tuy tầm nhìn và chiến lược có vị trí, vai trò to lớn nhưng hiện nay, nhiều ngân hàng Việt Nam vẫn chưa coi trọng đầu tư đúng mức cho việc xây dựng, tổ chức thực hiện và chưa sử dụng tầm nhìn như một công cụ quản lý hữu hiệu. Do vậy, từng ngân hàng nên tiếp tục hoàn chỉnh, hoàn thiện để có thể công bố một tầm nhìn, chiến lược phát triển rõ ràng. Trong điều kiện hội nhập, bên cạnh 6 yếu tố chủ yếu nêu trên, tầm nhìn của mỗi ngân hàng Việt Nam mở rộng phạm vi ra cả khu vực và các thị trường có chọn lọc trên thế giới; đồng thời, phải phản ảnh các bản sắc, bản lĩnh của ngân hàng mình trong một môi trường kinh doanh đã và đang có nhiều thay đổi lớn và nhanh.

4. Vấn đề lựa chọn và xây dựng mô hình ngân hàng hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế; tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm quốc tế, phát huy bản sắc của mỗi ngân hàng Việt Nam

Trải nghiệm qua quá trình phát triển hàng trăm năm, ở các nước trên thế giới đã hình thành nên các mô hình tổ chức hoạt động ngân hàng khác nhau nhưng đã và đang được hướng tới những chuẩn mực tiên tiến và thông lệ tốt của các ngân hàng hiện đại. Có thể hiểu ngân hàng hiện đại là những ngân hàng đạt trình độ cao về công nghệ, tổ chức quản lý và hoạt động ngân hàng nhờ áp dụng các thành tựu mới của khoa học và công nghệ liên quan. Do tính đa dạng, phức tạp của các sản phẩm dịch vụ và hoạt động ngân hàng; sự chênh lệch về trình độ và đặc thù phát triển khác nhau của các nước, không thể có một mô hình chung, duy nhất có thể áp dụng cho mọi ngân hàng trên tất cả các nước; vì vậy, mỗi ngân hàng cần phải dành nhân lực và thời gian để nghiên cứu lựa chọn, xây dựng một mô hình tiên tiến, phù hợp với các điều kiện cụ thể của quốc gia và ngân hàng mình. Trong một mô hình như vậy, cần phân biệt hai nhóm các yếu tố cơ bản: (1) Các yếu tố chung, phổ biến và những chuẩn mực mang tính bắt buộc mà mỗi ngân hàng hiện nay muốn trở thành ngân hàng tiên tiến trên thế giới đều phải đạt tới; (2) Các yếu tố phản ảnh những đặc thù vốn có của mỗi ngân hàng, làm nên sự khác biệt, đặc sắc của từng mô hình cụ thể và khi tập hợp lại cần tạo ra sự đa dạng của các mô hình ngân hàng. Trên cơ sở này, khi nghiên cứu tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, chúng ta không được áp dụng máy móc mô hình của bất kỳ ngân hàng nào mà chủ yếu cần xác định đúng các yếu tố mang tính phổ biến, bắt buộc và tìm cách áp dụng; bên cạnh đó, mỗi ngân hàng cần tìm ra và cố gắng phát huy những thế mạnh riêng có và cần được bổ sung vào những nét chung, mang tính phổ biến để làm cho mô hình tổ chức ngân hàng thực phong phú, đa dạng, vừa phù hợp với xu hướng chung nhưng vẫn có hàm chứa các bản sắc riêng và chính điều này mới mang lại năng lực cạnh tranh đích thực cho mỗi ngân hàng.

5. Vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường hợp tác để tạo ra sức mạnh tổng hợp của hệ thống ngân hàng Việt Nam, nhưng vẫn đảm bảo phát huy được các lợi thế của mỗi ngân hàng

Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, việc xác định đúng năng lực và vị thế của mình cũng như của các đối tác liên minh chiến lược, các đối thủ cạnh tranh hiện hữu và tiềm năng có ý nghĩa quan trọng đối với sự thành công trong hoạt động ngân hàng.

Trước hết, mỗi ngân hàng cần tập trung xây dựng và thực hiện chiến lược, kế hoạch và chính sách tăng cường năng lực cạnh tranh của mình, đặc biệt là các năng lực thiết yếu: tài chính, công nghệ, quản trị ngân hàng và nguồn nhân lực chất lượng cao. Vấn đề không chỉ tạo ra và gia tăng năng lực từng mặt nêu trên mà điều quan trọng hơn là phải sử dụng hợp lý, có hiệu quả từng yếu tố cũng như kết hợp sử dụng tốt tất cả các yếu tố này; riêng đối với nguồn nhân lực chất lượng cao, do có vai trò quyết định đối với năng lực cạnh tranh của ngân hàng, vì vậy, các ngân hàng cần gia tăng và sử dụng hợp lý hơn nguồn kinh phí dành để đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhằm đáp ứng các yêu cầu mới. Cần xuất phát từ tầm nhìn và chiến lược phát triển để xác định đúng cơ cấu, lựa chọn đúng các đối tượng và lĩnh vực cần tập trung đào tạo ở trong và ngoài nước nhằm cập nhật và nâng cao kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ ngân hàng hiện đại cho cán bộ ngân hàng. Những cán bộ trẻ được xác định có phẩm chất đạo đức và các tố chất cần thiết đối với mỗi vị trí công tác dự kiến, sau khi đào tạo đạt kết quả cao, được trang bị năng lực chuyên môn, ngoại ngữ, tin học tốt cần được quan tâm, mạnh dạn bố trí vào các cương vị thích hợp để có điều kiện thể hiện, khẳng định và đóng góp tối đa cho ngân hàng; lực lượng này cần được coi là đội quân xung kích trong việc thực hiện các nhiệm vụ liên quan quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các ngân hàng.

Mặt khác, mỗi ngân hàng Việt Nam cần xác định và tìm cách trả lời chính xác các câu hỏi như: trong từng lĩnh vực và mỗi thị trường cụ thể, có thể và nên lựa chọn sản phẩm và phân khúc thị trường nào để có thể giành và phát huy ưu thế; cần hợp tác với ai, phải chấp nhận và có thể cạnh tranh với ai? Một số điều cần lưu ý là: (1) Khi chuẩn bị cho việc tham gia hợp tác, liên doanh, mỗi ngân hàng không chỉ đòi hỏi và bảo vệ lợi ích cho mình mà cần chú trọng nêu bật những lợi ích mà mình có thể và cần cam kết mang lại cho đối tác để tăng tính hấp dẫn và thuyết phục, tạo điều kiện cho sự hợp tác lâu bền; (2) Để chuẩn bị các điều kiện có thể cạnh tranh với các đối thủ là các ngân hàng nước ngoài có nhiều thế mạnh hơn, các ngân hàng trong nước vừa cần tập dượt cạnh tranh với nhau vừa phải hợp tác để giải quyết các vấn đề có chung mối quan tâm và lợi ích như hợp tác xây dựng và khai thác kết cấu hạ tầng kỹ thuật ngành, kể cả trong việc đào tạo nguồn nhân lực, chia sẻ kinh nghiệm quản trị kinh doanh ngân hàng,…; Nếu vấn đề hợp tác được giải quyết hợp lý sẽ tạo điều kiện không chỉ tăng cường năng lực cạnh của từng ngân hàng mà còn cho cả cộng đồng hoặc từng nhóm ngân hàng Việt Nam vươn lên cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài.

6. Vấn đề công khai và minh bạch hoá các thông tin về hoạt động ngân hàng và trách nhiệm giải trình của các ngân hàng

Công khai và minh bạch hoá các thông tin về hoạt động ngân hàng đã và đang là đòi hỏi cấp thiết và từng bước được quan tâm giải quyết ở Việt Nam. Tuy đã có những tiến bộ nhất định, nhưng trước đòi hỏi của đời sống dân chủ trong nước và việc thực hiện các cam kết quốc tế, yêu cầu này cần được thực hiện đồng bộ và mạnh mẽ hơn nữa:

Một là, với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ - tín dụng - ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng và định kỳ chính thức công bố thống nhất về hệ thống các chỉ số cơ bản phản ảnh tình hình và kết quả hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Những thông tin này cho đến nay vẫn còn thiếu tính hệ thống và nhất quán; tính chính xác và độ tin cậy chưa cao.

Hai là, Nhà nước phải thể chế hoá yêu cầu về nội dung, hình thức và tính trung thực cần thiết của những thông tin mà mỗi ngân hàng hoạt động ở Việt Nam phải định kỳ công bố công khai; các quyền lợi và trách nhiệm của các khách hàng và dân chúng trong quan hệ với ngân hàng để tham gia giám sát và thực hiện.

Ba là, hệ thống ngân hàng cũng cần công khai hoá cơ chế đối thoại và trách nhiệm giải trình đối với khách hàng, dân chúng và giới truyền thông về những vấn đề được xã hội quan tâm và thuộc trách nhiệm của các ngân hàng.

7. Vấn đề đổi mới tư duy và cách thức quản lý hoạt động thị trường tài chính - tiền tệ trong điều kiện mới

Thị trường tài chính - tiền tệ của Việt Nam sau khi gia nhập WTO chắc chắn sẽ có nhiều thay đổi lớn. Do vậy, để tránh tình trạng lúng túng, bị động, ngay từ bây giờ, chúng ta phải tiến hành nghiên cứu đưa ra các dự báo để có cơ sở tổ chức hoạt động và quản lý thị trường này có hiệu quả. Những vấn đề cần phải tính đến và quan tâm xử lý sẽ là: (1) Thị trường tài chính - tiền tệ Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới, da dạng và có trình độ phát triển khá hơn, đồng bộ hơn: các thị trường mới như thị trường bất động sản đã được hình thành; một loạt các quỹ đầu tư cũng đã ra đời và đi vào hoạt động; thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm đã phát triển mạnh hơn;... (2) Thị trường đã và sẽ có thêm các thành viên là các ngân hàng nước ngoài với các quyền hạn ngày càng được đảm bảo đầy đủ, công bằng như ngân hàng trong nước; (3) Việc tuân thủ và thực hiện các cam kết quốc tế buộc luật chơi của thị trường Việt Nam phải tính đến và phù hợp hơn với các thông lệ quốc tế; (4) Sự tác động của thị trường khu vực và thế giới đến thị trường tài chính - tiền tệ trong nước sẽ lớn hơn vì mức độ mở cửa rộng rãi, đầy đủ hơn; (5) Các khách hàng trong nước do có khả năng lớn hơn trong việc lựa chọn dịch vụ từ các ngân hàng trong và ngoài nước nên sẽ đòi hỏi nhiều hơn và trở nên “khó tính hơn”. Do vậy, đối với các ngân hàng trong nước, việc chiếm lĩnh và duy trì thị phần, thoả mãn nhu cầu của khách hàng sẽ trở nên khó khăn hơn nếu không có những đổi mới và thích ứng cần thiết.

Trước những thay đổi trong môi trường kinh doanh ngân hàng như nêu trên, việc quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như sự quản trị, điều hành của mỗi ngân hàng cũng cần có những đổi mới mạnh mẽ và cơ bản: (1) Về tư duy, trước hết các cơ quan quản lý nhà nước cần dành cho thị trường nhiều quyền tự do và tạo môi trường thuận lợi trong khuôn khổ luật pháp được thiết lập, giảm thiểu cách quản lý quá chi tiết, can thiệp sự vụ; (2) Các cơ quan quản lý nhà nước và các công chức nhà nước cần phải chịu trách nhiệm cụ thể về các quyết định của mình trước cộng đồng các ngân hàng, khách hàng, Chính phủ Việt Nam và các cam kết quốc tế liên quan; Do vậy, qui trình, chất lượng soạn thảo, ban hành các quyết định quản lý về hoạt ngân hàng sẽ phải được tuân thủ chặt chẽ, đầy đủ hơn; (3) Phải tiến hành nghiên cứu sâu đối với thực tiễn hoạt động và phát triển của các thị trường và các ngân hàng thương mại để kịp thời có những cơ chế, chính sách quản lý cho phù hợp và không ngừng cải thiện, hoàn thiện các điều kiện pháp lý cho môi trường kinh doanh ngân hàng rõ ràng, minh bạch và thuận lợi hơn; (4) Đối với lãnh đạo của các tổ chức tín dụng (nhất là các tổ chức tín dụng nhà nước), cần tập trung thực hiện các giải pháp nhằm thực sự tạo nên năng lực đủ sức cạnh tranh sòng phẳng với các đối thủ khác trên thị trường.

8. Vấn đề đổi mới và nâng cao cao hiệu quả công nghệ ngân hàng

Hiện nay, hầu hết các ngân hàng Việt Nam đã thấy sự cấp thiết và đang từng bước cố gắng hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và coi đây là một trong những trụ cột chính để nâng cao năng lực cạnh tranh và đảm bảo sự phát triển bền vững. Nhiều hệ thống công nghệ và phần mềm tiên tiến đã ược áp dụng để xử lý các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. Theo đánh giá sơ bộ, ở nhiều ngân hàng Việt Nam, có đến khoảng 80% nghiệp vụ được xử lý qua máy tính; các hệ thống công nghệ thông tin đang được áp dụng đạt mức trung bình của khu vực; lực lượng cán bộ công nghệ thông tin ngân hàng có gần hai ngàn người, về cơ bản, có thể đáp ứng các yêu cầu công việc hằng ngày. Tuy vậy, thực tế cho thấy việc xây dựng, vận hành và khai thác sử dụng hệ thống công nghệ thông tin trong ngành Ngân hàng ở nước ta còn nhiều hạn chế, yếu kém cần được đầu tư khắc phục: (1) Hệ thống công nghệ của từng ngân hàng được hình thành từ nhiều nguồn, còn bị tách biệt nhiều nên chưa hình thành được sự liên thông, gắn kết, khó tạo được sự đồng bộ cần thiết tính cho hệ thống tổng thể công nghệ ngành Ngân hàng. Do vậy, việc khai thác, sử dụng hiệu quả để phát triển các sản phẩm dịch vụ mới còn bị hạn chế, khó khăn; (2) Đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin nói chung, trong ngành Ngân hàng nói riêng chưa đủ mạnh, nhất là trong việc thiết kế các hệ thống lớn, các phần mềm có tính phức tạp, tích hợp cao nên việc triển khai và phát triển kinh doanh các sản phẩm dịch vụ mới trên nền công nghệ cao còn bị hạn chế; kiến thức và kỹ năng của một bộ phận không nhỏ cán bộ ngân hàng chưa đủ để khai thác sử dụng có hiệu quả các tính năng, công năng của hệ thống trang thiết bị tin học hiện có.

9. Vấn đề thâm nhập và tham gia cạnh tranh trên các thị trường khu vực và quốc tế

Cùng với việc mở cửa nền kinh tế, thu hút các luồng vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ nước ngoài, các ngân hàng Việt Nam đã, đang và sẽ phải từng bước thâm nhập, mở rộng sang một số thị trường lựa chọn ở các nước khu vực và thế giới. Thứ nhất, các ngân hàng Việt Nam cần bám sát và hỗ trợ tích cực hơn cho các doanh nghiệp trong hoạt động xuất - nhập khẩu hoặc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Theo xu hướng này, chúng ta đã xây dựng và cho ra đời một số ngân hàng liên doanh như Ngân hàng liên doanh Lào - Việt... và sắp tới đây (dự kiến vào cuối năm 2006) là Ngân hàng liên doanh Việt - Nga; các ngân hàng Việt Nam cũng có thể mở văn phòng đại diện, chuẩn bị để tiến tới mở chi nhánh ở nước ngoài. Thứ hai, bên cạnh việc đồng hành, hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động xuất- nhập khẩu, các ngân hàng Việt Nam cần có chương trình nghiên cứu sâu về các thị trường tiềm năng trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, tìm hiểu luật pháp liên quan ở từng nước, khu vực để xây dựng chiến lược và cách thức thâm nhập, mở rộng hoạt động (nếu đã có) cho phù hợp.

Tài liệu tham khảo:

- Tiến trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam, Nguyễn Đồng Tiến, T/C Ngân hàng, 1/1/2005;

- Xây dựng Thể chế hỗ trợ thị trường, WB, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội, 2002;

- Tái lập ngân hàng, Paul H. Allen, NXB Thanh niên, Hà nội 2003;

- Kinh doanh, Báo cáo phát triển Việt Nam 2006, Hà nội 2006.(Ngày 30/8/2006)

                                                                         Theo NHNN

Các tin liên quan